Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 57
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Huệ Trang và Đức Phong
Tập 113
“Diệc chánh như Viên Giác kinh
viết: ‘Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác.
Cố ư huyễn tướng vô trước, vô
đắc” (cũng đúng như kinh Viên Giác đă nói:
“Biết huyễn liền ĺa, ĺa huyễn tức là giác. V́
thế, đối với huyễn tướng chẳng chấp
trước, chẳng đạt được”). Trong phần
trước, chúng ta đă học qua, các đồng học
tu Tịnh Độ chớ nên quên, phải học trí huệ
của Văn Thù Bồ Tát, phải học hành môn của Phổ
Hiền Bồ Tát; trong các phần trước, chúng tôi đă
nói rất nhiều. Điều này là một chuyện rất
khó, nhưng chẳng thể không học, pháp môn này thù
thắng khôn sánh. Điều trọng yếu nhất là
trước hết phải nhận biết nó, mục đích
đầu tiên của kinh giáo là nhằm chỉ dạy, hướng
dẫn chúng ta nhận biết và liễu giải pháp môn này.
Nhận thức càng sâu, liễu giải càng thấu
triệt, công phu tu hành tự nhiên đắc lực. Hễ
công phu chẳng đắc lực, đều là do chẳng
nhận thức rơ ràng chân tướng sự thật; trong
kinh luận, Phật, Bồ Tát, tổ sư đại
đức thường khuyên dạy chúng ta điều này.
Trong phần trước, [sách Chú Giải] đă dẫn thí
dụ trong kinh Bảo Tích, tiếp theo đó, cũng trích dẫn
mấy câu trong kinh Viên Giác, trong ấy có hai câu: “Tri huyễn tức ly, ly
huyễn tức giác”, hai câu này là kinh văn. Chúng ta
nhất định phải biết khắp pháp giới
hư không giới, trong phần trước, tôi đă thưa
cùng chư vị, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới chẳng phải là thật, kể cả cơi
Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai
cũng chẳng thật. Đối với tiêu chuẩn “chân
- vọng”, Phật pháp có một tiêu chuẩn tuyệt đối:
Thật sự vĩnh hằng bất biến th́ là Chân;
nếu có biến hóa, đó là Giả. Vậy th́ chúng hăy ta
suy nghĩ, trong thế giới hiện thời, đối
với các đối tượng tiếp xúc của sáu căn,
có thứ nào mắt trông thấy mà chẳng biến hóa? Tai nghe
âm thanh, mũi ngửi mùi vị, lưỡi nếm năm
vị, cho đến ư căn tiếp xúc pháp trần,
đều là các hiện tượng sanh diệt, đều
có biến hóa. Nói chung, động vật có sanh, lăo, bệnh,
tử, sự biến hóa ấy được gọi là “vô thường”. Thực
vật có sanh, trụ, dị, diệt, khoáng vật có thành,
trụ, hoại, không; chỉ có một thứ chúng ta chẳng
nh́n thấy sự biến hóa của nó, tức là hư
không. Trong Bách Pháp [Minh Môn Luận], hư không được
xếp vào loại vô vi pháp, tức là Hư Không Vô Vi. Hư không
có phải là chân thật hay không? Hư không cũng chẳng
phải là thật, pháp vô vi thật sự chỉ có một,
tức là Chân Như Vô Vi. Năm thứ kia là Tương
Tự Vô Vi, [có nghĩa là] giống như pháp vô vi, nhưng
trên thực tế, chúng vẫn có sanh diệt.
Các nhà khoa học hiện thời nói
thời gian và không gian chẳng thật. Giáo pháp Đại
Thừa bảo chúng ta: Tu hành đến mức đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh, quư vị bèn đột
phá các chiều không gian. “Đột phá các chiều không gian”
là chuyện như thế nào? Thời gian chẳng c̣n nữa,
thời gian là giả. Thời gian không có, bèn chẳng có trước
và sau, chẳng có quá khứ, mà cũng chẳng có
tương lai, mà là ngay lập tức, quư vị có thể thấy
quá khứ, mà cũng có thể thấy tương lai. Chẳng
có không gian th́ sao? Chẳng có không gian bèn chẳng có khoảng
cách, thế giới Cực Lạc ở nơi đâu? Ở
ngay nơi đây! Thật đấy, chẳng giả đâu!
Trong phần khai thị của [Tam Thời] Hệ Niệm Pháp
Sự, thiền sư Trung Phong đă bảo chúng ta: “Tâm ta tức là A Di Đà Phật,
A Di Đà Phật tức là tâm ta; phương này chính là Tịnh
Độ, Tịnh Độ chính là phương này”. Cảnh
giới ấy là cảnh giới đại triệt đại
ngộ, chẳng giả! Nếu quư vị đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, sẽ chứng
đắc cảnh giới ấy. Tại Ấn
Độ, các vị Bồ Tát và A La Hán đă chứng
đắc; tại Trung Quốc, Huệ Năng đại
sư đốn ngộ, đốn chứng. Lịch đại
tổ sư khai ngộ trong Tông Môn, quư vị đọc
Truyền Đăng Lục và Ngũ Đăng Hội Nguyên
[sẽ thấy] ghi chép rất nhiều. Đại khai viên
giải của Giáo Hạ và niệm đến mức Lư nhất
tâm bất loạn [trong Tịnh Độ] đều là nhập
cảnh giới này, cũng tức là quư vị đă hiểu
rơ chuyện thời gian và không gian, chúng chẳng phải là
thật, mà là giả. Giả th́ phải buông xuống, giả
th́ không chỉ chẳng mang theo được, mà chúng c̣n gây
ra phiền phức. Phiền phức là ǵ? Phiền phức
là mang đến nghiệp báo cho quư vị. Quư vị
thiện tâm, thiện hạnh, bèn sanh trong ba thiện đạo;
ác niệm, ác hạnh sẽ sanh trong ba ác đạo, phiền
phức ở chỗ này.
V́ thế,
người thật sự tu hành, người niệm Phật
nhất tâm nhất ư cầu sanh Tịnh Độ. Cầu
sanh Tịnh Độ v́ lẽ ǵ? Để thân cận A Di
Đà Phật, Ngài là bậc đại thiện tri thức
đệ nhất trong thế gian lẫn xuất thế
gian. Ở nơi đây, chúng ta tu hành chứng quả rất
khó khăn, dễ ǵ nói đến chuyện thành Phật? Đến
thế giới Cực Lạc bèn rất dễ dàng: Thầy
tốt, A Di Đà Phật là thầy; hoàn cảnh tốt đẹp.
Nhất là sanh về thế giới Cực Lạc, thọ
mạng giống như A Di Đà Phật, ai nấy đều
là vô lượng thọ. Bạn học tốt đẹp,
tức là các vị thượng thiện nhân, những thiện
nhân ấy thuộc địa vị nào? Đẳng Giác Bồ
Tát, hoặc Thập Địa Bồ Tát, quư vị là bạn
học của các Ngài. Do vậy, hễ sanh về ấy, có
thể nói là đảm bảo quư vị thành Phật. T́m đâu
ra một nơi nào khác [giống như vậy]? Ngoại trừ
pháp môn Tịnh Độ, chẳng t́m
được [pháp môn nào khác]! Do vậy, pháp môn này được
gọi là “môn dư đại
đạo” (đại đạo nằm ngoài các
pháp môn khác). Chữ “môn” ấy
chỉ tám vạn bốn ngàn pháp môn, [“môn dư đại đạo” có nghĩa là] đạo
thành Phật đặc biệt ở ngoài tám vạn
bốn ngàn pháp môn. Chẳng có duyên phận, chẳng thể
gặp gỡ th́ thôi, chẳng c̣n nói ǵ nữa; nhưng nếu
được gặp gỡ mà chẳng nắm vững, chẳng
thể thành tựu trong một đời, quá đáng tiếc!
Vậy th́ quư vị mong nắm chắc trong một đời,
thật sự thành tựu trong một đời, điều
vô cùng cần thiết là phải thấy thấu suốt. Đoạn
kinh văn này dạy chúng ta thấy thấu suốt, bảo
cho chúng ta biết thế giới này chẳng thật, toàn là
giả. Nếu quư vị chấp trước nó, sai mất
rồi! Thí dụ như quư vị mong khống chế nó, muốn
chiếm hữu nó, thôi rồi, trong tương lai quư vị
tiếp tục luân hồi chẳng ngơi trong lục đạo,
chẳng có phần thành tựu trong đời này. Do vậy,
phải triệt để buông xuống.
Buông xuống! V́ sao kẻ ấy chưa
buông xuống được? Chưa thấy thấu suốt,
tức là chẳng liễu giải chân tướng sự
thật. Đối với các kinh luận, cụ Hoàng Niệm
Tổ đă hết sức khó có, trích dẫn khá nhiều
khai thị trong các kinh luận nhằm giúp chúng ta thấy thấu
suốt. Kinh Bảo Tích giảng: “Như huyễn sư tác huyễn, tự ư
huyễn bất mê, dĩ tri huyễn hư cố, Phật
quán thế diệc nhiên” (như nhà ảo thuật làm ảo
thuật, đối với những thứ huyễn bèn chẳng
mê, v́ biết những thứ huyễn ấy là giả. Đức
Phật quán cơi đời cũng giống như thế). Trong
buổi học trước, chúng tôi đă nói điều này.
Một câu kinh rất nổi tiếng trong kinh Viên Giác là “tri huyễn tức ly, ly
huyễn tức giác”, hai câu ấy nói hay quá! V́ sao người
thế gian chẳng thể ĺa? “Ĺa”
là buông xuống, v́ sao chẳng thể buông xuống? Do không
biết. Chẳng biết thế gian này là giả, chẳng
thật. Trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia đại
sư đă nói: “Mộng lư minh
minh hữu lục thú” (trong mộng rành rành phô sáu nẻo),
“lục thú” (六趣) là lục đạo luân hồi.
Mộng là ǵ? Mộng là nói tới mê. Mê chứ chẳng giác,
nên dường như thật sự có lục đạo
luân hồi. Lục đạo luân hồi cũng chẳng
phải là giả, nhưng phải hiểu nó là một thứ
trong mộng! Nếu quư vị tỉnh giấc, lục
đạo chẳng c̣n nữa, giống hệt như mộng
vậy! Giấc mộng ấy khá lâu dài, thời gian
rất dài. Đă giác ngộ, giác ngộ là tỉnh mộng,
cũng chẳng c̣n lưu luyến lục đạo
nữa, cũng chẳng c̣n lưu tâm nơi đó nữa, như
vậy là đúng. Đó là thật sự khai ngộ trong Phật
môn, sự khai ngộ này chưa phải là đại
triệt đại ngộ, nhưng được kể
như là đại ngộ. Nhà Phật bảo “tích tiểu ngộ thành đại
ngộ”. Khi nào biết là đại ngộ? Thật sự
buông xuống là đại ngộ, chưa buông xuống th́
vẫn đang mê, mê chứ chẳng giác. Ly huyễn th́ ly
huyễn là đă giác ngộ. Trong tựa đề kinh có “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”,
năm chữ ấy trong tựa đề kinh chính là ba giai
đoạn tu hành.
Hiện
thời, chư vị đều biết, trên khắp thế
giới, chẳng riêng một nơi nào, tai nạn quá nhiều,
trong lịch sử Trung Quốc lẫn ngoại quốc đều
chưa hề có, những tai nạn kỳ quái hiện thời
đều bộc phát cả rồi. Hôm qua, có một đồng
học hạ tải một bài báo từ Internet đưa
cho tôi xem: Ở ngoại quốc, vừa phát hiện một
loại virus mới đang truyền nhiễm, từ Nam Á
truyền sang Ấn Độ rồi từ đó truyền
đến Âu Châu. Rất có thể loại ôn dịch này sẽ
lan truyền khắp thế giới. Rất đáng sợ!
Virus ấy rất nghiêm trọng, đó là ôn dịch.
Động đất, núi lửa, sóng thần, hạn hán,
lụt lội, toàn thể thế giới đều có. V́
sao có các hiện tượng ấy? Chúng ta đă học
giáo pháp Đại Thừa nhiều năm ngần ấy, bèn
hiểu rơ. Trong các buổi giảng, chúng tôi thường bảo
các đồng học, thế giới này và thế giới
Cực Lạc có ǵ khác biệt? Nói theo Lư, chẳng có mảy
may sai biệt. Không chỉ là hai thế giới, mà mười
phương vô lượng vô biên các cơi Phật, cũng chính
là vô số tinh cầu trong hư không mà chúng ta trông thấy
vào ban đêm, các thế giới ấy đều là b́nh
đẳng, chẳng có sai biệt. Thảy đều là “duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến”, làm sao có sai biệt cho được? V́
sao Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu Hoa Tạng,
giới thiệu Tịnh Độ của A Di Đà Phật
tốt đẹp dường ấy? Nh́n thấy địa
cầu của chúng ta lắm tai nạn ngần ấy, là
nguyên do ǵ? Đức Phật đă dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”,
chớ nên quên câu này! Sanh từ tâm tưởng, chúng ta bèn biết,
cư dân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
tức là những người sống trên quả địa
cầu đó, nghĩ tưởng ǵ? Những người
ấy luôn nghĩ đến Phật pháp Đại Thừa,
ở đây nói là “ư
huyễn bất mê, tri huyễn tức ly, ly huyễn
tức giác” (đối với huyễn chẳng mê,
biết là huyễn liền ĺa, ĺa huyễn chính là giác), họ
là hạng người như thế đó. Các cơi Phật
trong vũ trụ và thế gian của chúng ta khác nhau. Quư
vị thấy trong thế giới Cực Lạc, hoặc trong
thế giới Hoa Tạng, chẳng nghe nói có quốc gia, chẳng
nghe nói có quốc vương, chẳng nghe nói có đại thần, chẳng có chuyện
ấy! Chẳng nghe nói có sĩ, nông, công, thương.
Tây
Phương Cực Lạc thế giới có hai loại người,
chư vị phải biết điều này, thế
giới ấy đơn thuần lắm! Hai loại
người, một là thầy, A Di Đà Phật là thầy,
người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới đều là học tṛ. Người trong Tây
Phương Cực Lạc mỗi ngày làm chuyện ǵ? Đi
học. A Di Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp, các vị
Bồ Tát văng sanh hằng ngày nghe Phật giảng kinh, nghe Phật
dạy bảo, bèn chẳng có vọng tưởng, chẳng
có phân biệt, chẳng có chấp trước. Họ
học tập ở bên ấy đúng là chẳng gián đoạn,
ngày đêm đều chẳng gián đoạn. Thế giới
Cực Lạc chẳng có ngày đêm, cao hơn chư thiên,
Sắc Giới Thiên chẳng có ngày đêm. Do vậy, nói theo
cách chúng ta [thường nói], nơi ấy là trường học,
là Phật học viện. Trong vũ trụ, A Di Đà Phật
lập một Phật học viện, mười
phương chư Phật Như Lai, quư vị thấy chẳng
có vị Phật nào không khuyên đệ tử
của Ngài đến học trong thế giới Cực
Lạc. Văng sanh thế giới Cực Lạc là đến
học trong thế giới Cực Lạc, nay chúng ta nói là
“du học”, [văng sanh là] đến du học trong thế
giới Cực Lạc. Đến bên kia chắc chắn
thành Phật, lại c̣n hết sức nhanh chóng. Hạ
hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư,
mười hai kiếp bèn thành Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật
nói lời này trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, quyết
định chẳng phải là giả. Trong thế gian này,
nếu muốn thành Phật, đức Phật nói phải
trải qua vô lượng kiếp, đến thế
giới Cực Lạc [chỉ mất] mười hai
kiếp, quư vị thấy đỡ tốn bao nhiêu
thời gian! Đây là nói về trường hợp chậm
nhất. Nếu công phu tu hành của quư vị khá hơn, có
thể văng sanh trong trung phẩm hoặc thượng phẩm,
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới đại
khái chỉ có hai kiếp hoặc ba kiếp bèn thành công.
Nếu là người thật sự niệm đến mức
Lư nhất tâm bất loạn, đại triệt đại
ngộ, đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới bèn thành Phật, sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng
phải là cơi Đồng Cư, mà cũng chẳng phải
là cơi Hữu Dư, trực tiếp sanh vào cơi Thật Báo. Những
lư sự này đều được đức Phật giảng
thấu triệt như vậy trong kinh, chúng ta phải cảm
tạ, đó là đại ân đại đức của đức
Phật dành cho chúng ta. Chúng ta thật sự hiểu rơ, minh
bạch rồi, tâm niệm Phật mới thật sự
phát khởi, thật sự tu hành, thật sự niệm Phật.
V́ sao? Ta đă hiểu rơ, minh bạch chuyện này, mà cũng
hiểu rơ ràng minh bạch thế giới này. Những sự
tao ngộ trong mỗi đời của tất cả chúng
sanh trong hết thảy các cơi nước, nói một câu chân
thật th́ đều là “tự làm, tự chịu”. Đó
chính là “hết thảy các pháp sanh
từ tâm tưởng”, trong tâm quư vị nghĩ như
thế nào, hoàn cảnh bên ngoài biến hiện như thế
ấy, ai là chủ tể? Chính ḿnh là chủ tể! Trong ngàn
kinh muôn luận, đức Phật đă dạy điều
này chẳng biết bao nhiêu lần. “Duy tâm sở hiện”, tâm của ai? Tâm của
chính ḿnh; “duy thức sở
biến”, thức của ai? Phân biệt và chấp
trước của chính ḿnh, chẳng liên can đến ai
khác! Chớ nên chẳng biết chân tướng sự thật
này!
Nếu
tâm người trên địa cầu chúng ta đều thiện,
chẳng trái phạm Tam Học Giới -
Định - Huệ như Phật đă dạy trong kinh
giáo, c̣n người chẳng học Phật, như
người Trung Quốc [chẳng hạn] mà có thể tin
tưởng giáo huấn của tổ tiên, tuân thủ luân
lư, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức,
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, đều
chẳng ĺa các tiêu chuẩn ấy, thế giới này sẽ
vô cùng tốt đẹp, thế giới này sẽ được
gọi là cơi đời thịnh trị. Trước hết,
thân tâm mỗi người khỏe mạnh, gia đ́nh
hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, xă hội ḥa
hài, thiên hạ thái b́nh. Do ḷng người chiêu cảm, do ḷng
người tốt lành, nên núi, sông, đại địa
hoàn toàn chẳng có các tai nạn, kinh Phật đă dạy
như vậy. Tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo
tâm, tướng mạo và thân thể của chúng ta khỏe
mạnh là do ư niệm chuyển biến. Ư niệm của
ta tốt đẹp, con người bèn khỏe mạnh, sống
lâu, chẳng ngă bệnh. Tâm ta lẫn hành vi đều tốt
đẹp, ở nơi đâu, nơi ấy chẳng có tai
nạn. Điều này chẳng có ǵ hiếm hoi, lạ lùng,
t́nh h́nh vốn là như thế đó. Hoàn cảnh
đều là do ư niệm [mà biến hóa]; v́ thế, ư niệm
rất bất phàm, sức mạnh của nó rất lớn.
Ư niệm bất thiện là tai nạn, tâm hạnh của quư
vị chẳng lành th́ đối với chính ḿnh mà nói, chính
ḿnh toàn thân đầy bệnh tật, gia đ́nh bất ḥa,
công việc chẳng thuận lợi, chỗ ở thường
xảy ra tai nạn như hạn hán, lụt lội,
động đất, đều do ư niệm của chính
ḿnh phát khởi, biến hiện. Đức Phật đă
nói [những điều này] từ mấy ngàn năm trước.
Theo
ghi chép của tổ tiên Trung Quốc và lịch đại
tổ sư, khác với cách nói của người ngoại
quốc, người ngoại quốc nói: Từ lúc Thích Ca Mâu
Ni Phật diệt độ cho đến nay là hơn hai ngàn
năm trăm năm mươi năm. Tổ tiên người
Trung Quốc ghi chép khác với cách nói ấy, họ chép rất
rơ ràng là Thích Ca Mâu Ni Phật sanh nhằm năm thứ hai mươi
bốn đời Châu Chiêu Vương, tức là năm Giáp
Dần, Dần là cọp, Thích Ca Mâu Ni Phật tuổi Cọp,
năm Giáp Dần mà! Đức Phật diệt độ nhằm
năm thứ năm mươi ba đời Châu Mục
Vương. Nếu theo cách ghi chép này, từ khi đức Phật
diệt độ đến nay phải là ba ngàn lẻ ba
mươi bảy năm, đó là cách nói được chư
tổ tương truyền tại Trung Quốc. Trong quá
khứ, lăo ḥa thượng Hư Vân đă dùng cách nói này, vị
thuộc thế hệ trước đó là Ấn Quang đại
sư cũng tuân theo cách nói này. Đương nhiên người
ngoại quốc cũng có căn cứ, nhưng người
Trung Quốc cũng có căn cứ, chẳng cần
phải tranh luận chuyện này. Đây chẳng phải là
chuyện to tát ǵ mà là chuyện nhỏ nhoi, chuyện vặt
vănh như lông gà, vỏ tỏi! Đối với văn hóa
của chính ḿnh, đối với điều được
chư tổ tương truyền, chúng ta phải có tín tâm.
Lịch đại tổ sư trong quá khứ tại Trung
Quốc là những bậc hữu tu, hữu học, hữu
chứng, chẳng phải là kẻ tầm thường, người
b́nh thường sẽ chẳng làm được, các Ngài thật
sự là những vị tái lai. Nếu chúng ta chẳng thể
tin tưởng các Ngài, chẳng có tín tâm, sẽ chẳng có
cách nào học tập!
Điều
được kinh điển nói, được các tổ
sư truyền, c̣n rất khó có là các nhà khoa học cận đại,
tức là các nhà thuộc ngành khoa học tiên phong là Lượng
Tử Lực Học đă phát hiện. Trong những báo cáo
do họ đưa ra, rất nhiều điều giống
như trong kinh Phật đă nói. Thí dụ như ở đây
nói: “Tri huyễn hư cố”
(do biết huyễn là hư vọng), họ đă phát hiện
điều này. Phát hiện trong vũ trụ này, bất
luận tinh thần hay vật chất đều là giả,
đều chẳng phải là thật. Tinh thần và vật
chất do đâu mà có? Họ nói là do ư niệm mà có, chúng ta nói
là “niệm đầu”, cách
nói này giống như trong kinh Phật đă nói. Kinh Nhân
Vương dạy: Trong một cái khảy ngón tay có sáu
mươi sát-na, một sát-na có chín trăm niệm. Chúng ta
học tập kinh giáo biết Thích Ca Mâu Ni Phật nói theo kiểu
ấy là nói phương tiện, chẳng phải là chân thật.
Nói phương tiện th́ được, v́ người
b́nh phàm chẳng có cách nào lư giải điều này. Cuộc
đối thoại giữa Thích Ca Mâu Ni Phật và Di Lặc
Bồ Tát trong kinh Bồ Tát Xử Thai là nói chân thật, chẳng
phải là nói phương tiện. Đức Phật hỏi
Di Lặc Bồ Tát, phàm phu khởi một niệm, “tâm hữu sở niệm” (trong
tâm dấy lên một niệm) th́ trong một niệm ấy
có bao nhiêu tế niệm, tức là [có bao nhiêu] ư niệm vi
tế? Có bao nhiêu tướng? Tướng là hiện
tượng vật chất. Có bao nhiêu thức? Thức là Thọ,
Tưởng, Hành, Thức; tướng là Sắc, có những
hiện tượng như thế xuất hiện. Di
Lặc Bồ Tát trả lời, cũng dùng một cái khảy
ngón tay, bao nhiêu niệm? Ba mươi hai ức trăm ngàn niệm.
Dùng “trăm ngàn” làm đơn vị, chúng ta tính toán hoán đổi,
th́ [trong thời gian] một cái khảy ngón tay bèn có ba
trăm hai mươi triệu [tế niệm], nhiều hơn
kinh Nhân Vương đă nói quá nhiều. Nếu chúng ta khảy
nhanh, một giây khảy được năm lần, tôi tin
là có thể. Tôi có thể khảy bốn lần, tôi tin có người
khảy nhanh hơn tôi, thân thể khỏe mạnh hơn tôi,
động tác nhanh hơn tôi. Nếu một giây khảy năm
lần, bèn là bao nhiêu triệu? Một ngàn sáu trăm triệu,
vậy là một giây có bao nhiêu tế niệm? Có một ngàn
sáu trăm triệu niệm vi tế.
Niệm nhiều dường ấy,
liên tục tích lũy chẳng ngừng, bèn sanh ra huyễn
tướng. Trong huyễn tướng ấy có tinh
thần và có vật chất, nói theo danh từ Phật pháp là
Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
xuất hiện. Đó là ba tế tướng của A
Lại Da, các nhà Lượng Tử Học hiện thời
đă phát hiện, chúng ta chẳng thể không bội
phục họ. Trong kinh đức Phật đă nói, thức
thứ sáu là Ư Thức, có công năng phân biệt vô cùng to lớn,
đối ngoại, nó có thể duyên khắp pháp giới hư không giới, đối nội,
nó có thể duyên đến A Lại Da. Hiện thời, Lượng
Tử Lực Học đă duyên đến A Lại Da, nhưng
chẳng duyên đến tự tánh. Nếu lại hỏi,
các hiện tượng ư niệm ấy do đâu mà có, Lượng Tử Lực Học chẳng
có cách nào trả lời, nhưng kinh Phật th́ có. Đức
Phật dạy, trong vũ trụ có một Lư Thể thật
sự, có thể sanh ra vạn sự, vạn vật, Lư Thể
ấy được gọi là tự tánh, “minh tâm kiến tánh”
là quư vị t́m được điều này. Trong triết
học, nó được gọi là “bản thể của vũ
trụ vạn hữu”. Nó có thể sanh, có thể hiện,
có thể biến; muôn h́nh muôn vẻ trong toàn thể vũ
trụ là cái được sanh, cái được hiện,
cái được biến. Khoa học chẳng t́m
được cái “có thể sanh, có thể hiện, có
thể biến” này. V́ sao? V́ chẳng thể dùng phân
biệt, càng chẳng thể dùng chấp trước. Quư
vị có phân biệt, có chấp trước, bèn là vọng tâm,
vọng tâm chỉ có thể duyên vọng. A Lại Da là
vọng, nên có thể duyên đến những hiện tượng
hư vọng trong khắp pháp giới hư không giới, nhưng
chẳng thể duyên Chân. Phải như thế nào th́ mới
có thể duyên Chân? Buông vọng xuống sẽ duyên được,
thấy được; v́ thế nói “tri huyễn tức ly”, ly huyễn bèn giác. Giác ấy
chính là đại triệt đại ngộ, minh tâm
kiến tánh, người ấy (người ly huyễn) đă
chứng đắc cảnh giới ấy. Trong Phật pháp, người ấy được
gọi là Phật Đà, đă thành Phật. Nhà khoa học,
nhà khoa học Lượng Tử hăy c̣n cách biệt Phật
một khoảng, tùy thuộc người ấy có thể buông
xuống hay không? Nếu thật sự có thể buông toàn bộ
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống,
người ấy bèn thành Phật.
Khoa học tiến bộ, tôi tin là
dăm ba năm nữa, Lượng Tử
Lực Học có thể phổ biến, khiến cho người
trong cơi đời đều biết, [chuyện ấy] sẽ
có ích vô cùng to lớn cho Phật giáo, [v́] những điều
đức Phật đă nói trong kinh đều được
chứng tỏ. Nhân loại đă có năng lực xử lư
hoàn cảnh, muốn hóa giải tai nạn bèn biết dùng phương
pháp ǵ; để hóa giải các xung đột, đă có
biện pháp. Chỉ cần chúng ta tin tưởng, “tín vi đạo nguyên, công
đức mẫu” (tín là nguồn đạo, mẹ công
đức), quư vị chẳng tin th́ chẳng có cách nào cả!
V́ sao chẳng thể tin? Quư vị chẳng nhận biết
điều này, do chẳng nhận biết nên không tin. Khi tôi
c̣n trẻ, đối với những điều này chẳng
biết tí ǵ, học trong nhà trường nghe giáo viên bảo:
“Tôn giáo là mê tín, Phật giáo là đa thần giáo, thứ ǵ cũng
lạy, mê tín nhất, mê tín hàng đầu trong các thứ mê
tín”. V́ thế, trước nay tôi chưa hề có ư nghĩ
tiếp xúc Phật giáo, chẳng có! Chùa miếu đều chẳng
đến, thuở trẻ ngoan cố dường ấy. Cũng
may là chúng tôi có tâm mong cầu hiểu biết, lúc hai
mươi mốt tuổi sanh ḷng mê đắm triết
học, trong tâm tôi hết sức ưa thích môn khoa học ấy.
Lúc hai mươi sáu tuổi, gặp gỡ giáo sư
Phương Đông Mỹ là một vị triết gia đương
thời mà trong tâm tôi hết sức ngưỡng mộ, tôi
theo học Triết với thầy. Trong phần cuối cùng,
thầy giảng triết học trong kinh Phật, tôi cảm
thấy hết sức kinh ngạc, thưa: “Phật giáo là
tôn giáo, là đa thần giáo. Đa thần giáo là tôn giáo thấp
kém, làm sao có triết học cho được?” Thầy bảo:
“Anh c̣n trẻ, không biết!” Thầy giảng: “Thích Ca Mâu Ni Phật là triết
gia vĩ đại nhất trên thế giới, kinh Phật
là đỉnh cao nhất trong nền triết học toàn
thế giới. Học Phật là hưởng thụ cao
nhất trong đời người”. Tôi theo học môn ấy
với thầy, mới sửa đổi quan niệm sai lầm,
biết trong ấy có thứ thật tốt đẹp dường
ấy, vô cùng khát vọng.
Thầy
bảo tôi: “Hiện thời,
trong các chùa miếu chẳng có triết học Phật giáo”,
tôi hỏi thầy phải t́m ở nơi đâu? “Trong kinh điển”. V́ sao? Hiện
thời, trong chùa miếu chẳng có người học tập
nữa. Thầy nói chẳng giống như trong quá khứ.
Trong quá khứ, những người xuất gia trong các chùa
miếu là bậc đại đức hạnh,
đại học vấn! V́ thế, Phật môn
thường nói: “Người
xuất gia là thầy của đế vương”, chẳng
sai tí nào! Thật sự có tư cách làm thầy của đế
vương. Đế vương, tướng lănh, đại
thần hễ gặp những vấn đề chẳng
thể giải quyết bèn thỉnh giáo người xuất
gia, người xuất gia thật sự có năng lực
chỉ dạy họ. Đáng tiếc là hiện thời họ
chẳng học [kinh giáo] nữa. Do vậy, thầy bảo
tôi: “Nếu anh muốn học,
[hăy học] từ kinh điển”, chỉ cho tôi con đường
ấy. Thầy chỉ cho tôi con đường ấy vô cùng
chánh xác. Nếu thầy chẳng nói trước, tôi ṃ đến
chùa miếu, gặp người xuất gia thỉnh giáo, một
câu hỏi là ba điều không biết[1],
chắc chắn tôi sẽ ngờ vực lời thầy,
[cho là] lời thầy nói chẳng phải là sự thật.
Thầy đă dặn ḍ trước: “Người xuất
gia chẳng nghiêm túc học tập”. Sau khi đă học th́
phải làm được, đó là Tập. Quư vị
học rồi nhưng chẳng làm được, đó là
giả, vô dụng! Há chẳng phải là trong Phật giáo có
khoa học cao cấp? Chúng tôi đă học Phật nhiều
năm ngần ấy, biết Phật giáo không chỉ có
khoa học cao cấp, mà c̣n có triết học cao cấp. Khoa
học và triết học đều đạt tới đỉnh cao tột bậc. Những
phát hiện gần đây nhất trong Lượng Tử
Lực Học giống hệt như trong kinh Đại
Thừa đă nói.
Học Phật có lợi ở chỗ
nào? Đối với chính ḿnh mà nói th́ là thân tâm khỏe
mạnh, thân tâm thanh tịnh; ban cho quư vị điều tốt
đẹp ấy, chẳng có phiền năo, chẳng có ưu
lự, chẳng có vướng mắc, chẳng có áp
lực, trí huệ tăng trưởng, đức hạnh
tăng trưởng, vui sướng lắm! V́ vậy, người
học Phật pháp hỷ sung măn, trong Đại Kinh thường
nói: “Bồ Tát thường sanh
tâm hoan hỷ”, ở đây quư vị nói là “rất sung sướng”.
V́ thế, thầy bảo tôi: “Học
Phật là hưởng thụ cao nhất trong đời
người”, tôi đă đạt được.
Mỗi ngày đều cảm tạ thầy; nếu thầy
chẳng chỉ ra con đường này, suốt cuộc đời
này tôi sẽ khổ sở chẳng thể nói nổi, há có hạnh
phúc, tự tại dường ấy? Thầy chỉ
điểm đường lối chánh xác, bản thân chúng
ta phải thật sự làm, biết đó là giả. Kinh
Kim Cang dạy: “Phàm những ǵ
có tướng đều là hư vọng”, đối với
tất cả những tướng được hiện,
chúng ta đều chẳng bận tâm, buông xuống hết!
Thật sự chẳng có một niệm toan khống chế,
chẳng có mảy may ư niệm chiếm hữu nào! Thuở
tại thế, đức Thế Tôn đă nêu tấm gương
tốt nhất. Ngài xuất thân là vương tử, quư
tộc, xuất thân từ quư tộc. Mười chín
tuổi bỏ ngôi vua, rời gia đ́nh đi học đạo,
học suốt mười hai năm. Sống cuộc đời
của một vị Tăng khổ hạnh, ba y một bát,
giữa trưa ăn một bữa, nghỉ dưới cội
cây, sống suốt cả đời như vậy, vui sướng
khôn sánh! Thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Học Tiểu Thừa thành tựu, thành Chánh Giác, Đại
Thừa Bồ Tát thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Thuở ấy,
Ngài biểu hiện cho chúng ta thấy, nêu gương cho hàng
hậu học chúng ta.
Trong Phật pháp, để tiến
cao hơn th́ phải buông xuống. Thuở ấy, Chương
Gia đại sư dạy tôi: “Giống như ṭa cao ốc
một trăm tầng, quư vị có thể buông tầng thứ nhất xuống th́
mới có thể tiến lên tầng thứ hai. Có thể
buông tầng thứ hai xuống, mới có thể lên tầng
thứ ba. Quư vị chẳng chịu buông xuống, chấp
trước nơi đó, sẽ vĩnh viễn chẳng
thể tiến bộ”. Năm mươi mốt tầng cấp
Bồ Tát, [Thập Tín], Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác,
giống như một ṭa cao ốc gồm năm
mươi mốt tầng. Có thể buông Thập Tín
xuống, quư vị đạt tới địa vị
Thập Trụ. Có thể buông Thập Trụ xuống,
quư vị mới có thể đạt đến địa
vị Thập Hạnh, bí quyết là buông xuống. V́ sao chẳng
buông xuống được? Do chẳng liễu giải chân
tướng sự thật! V́ vậy, trước hết
bảo quư vị hăy liễu giải chân tướng sự
thật. Trí Văn Thù là thấy thấu suốt, hạnh Phổ
Hiền là buông xuống. Thấy thấu suốt giúp buông xuống,
buông xuống lại giúp thấy thấu suốt, hai điều
này giúp nhau thành tựu từ Sơ Phát Tâm cho đến địa
vị Như Lai, đem phương pháp thật sự bí mật
này truyền cho quư vị! Tôi gặp gỡ Chương Gia đại
sư là lần đầu tiên gặp mặt người
xuất gia, tôi bèn hướng về lăo nhân gia thỉnh
giáo. Tôi thưa: “Tiên sinh Phương Đông Mỹ giới
thiệu cho con biết Phật pháp, con biết Phật pháp
thù thắng, biết Phật pháp là đại học
vấn có thể giải quyết hết thảy vấn
đề”. Tôi thỉnh giáo lăo nhân gia: “Có phương pháp tốt
đẹp nào khiến cho con có thể khế nhập rất
nhanh chóng hay chăng?” Ngài dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”, truyền
cho tôi ngay hôm đầu tiên. Tôi học suốt mười
mấy năm mới thật sự hiểu rơ đạo
lư ấy. Sau khi đă hiểu rơ, cảm kích thầy vô tận.
Ngài chẳng giấu giếm mảy may nào, giống như đă
đem bí mật thành Phật của hàng Bồ Tát truyền
cho tôi. Tuy trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă
thường nói [tới bí quyết ấy], nhưng chúng tôi
xem mà chẳng hiểu, đọc phớt qua, chẳng hề
lưu ư. Thầy vừa chỉ điểm, cảnh tỉnh,
chúng tôi bèn chú ư, phát hiện trong kinh điển Đại
Thừa, đâu đâu Phật cũng đề ra, chỉ
dạy [điều ấy]. Trong những bộ kinh Bảo
Tích, Viên Giác, Lăng Nghiêm được nêu ra ở đây,
thảy đều có. Đă thật sự liễu giải,
nên đối với huyễn tướng chẳng chấp,
chẳng đắc. “Chấp”
là chấp tướng. Chẳng c̣n chấp tướng, bèn
chẳng c̣n có ư niệm được - mất. Đối
với hết thảy sự vật, chẳng có ư niệm
khống chế hay chiếm hữu. Đó là “vô đắc”, thật sự
thấy thấu suốt.
“Văn
trung thịnh tán đại sĩ chi Quyền Thật
nhị đức” (lời văn nồng nhiệt ca ngợi
hai đức Quyền và Thật của đại sĩ),
Quyền Đức là buông xuống, Thật Đức là thấy
thấu suốt. “Đại
sĩ” được nói ở đây chính là các vị Bồ
Tát tham dự pháp hội này. Ở đây nói tỳ-kheo có tới một vạn hai ngàn người, Bồ
Tát vô lượng vô biên, có nhiều vị Bồ Tát từ
thế giới phương khác đến. “Giai năng
thị hiện thị Quyền Đức, thật vô
khả đắc thị Thật Đức” (“Đều
có thể thị hiện” là Quyền Đức, “thật sự
chẳng thể được” là Thật Đức). “Thật vô khả đắc”
là trí huệ, “giai năng thị
hiện” là phương tiện thiện xảo, nên dùng
thân ǵ để độ được, chư Phật Như
Lai, Pháp Thân Bồ Tát đều có thể hiện thân,
như trong kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận
theo tâm của chúng sanh mà ứng hiện xứng với khả
năng hiểu biết của họ). Chư Phật,
Bồ Tát hiện thân, xác thực là chẳng hề khởi
tâm động niệm, hiện như thế nào? Tự
nhiên hiện, thuật ngữ trong Phật pháp là “pháp nhĩ như thị”, tức là “vốn là như
vậy”. Nếu hỏi, v́ sao vốn là như vậy? Do cùng
một tự tánh! Chỉ rơ vạn sự vạn vật
trong toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là cùng một Thể.
Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật
thường nói: “Mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”,
thật vậy, chẳng giả tí nào! Do đó nói: “Vô duyên Đại Từ,
đồng thể Đại Bi”. Pháp Thân Bồ Tát
biết, nhận thức, khẳng định hết
thảy các pháp và ta là một Thể, phàm phu chẳng biết,
phân chia Tự và Tha, nên tự tư tự lợi, tổn
người lợi ḿnh, gây tạo vô lượng vô biên tội
nghiệp. Tuy tội nghiệp là giả, chẳng thật,
nhưng nếu kẻ ấy không tỉnh ngộ th́ phải
hứng chịu! Hứng chịu rất khổ, giống
như mơ thấy ác mộng. Khi kẻ ấy gặp ác mộng,
chẳng biết chính ḿnh đang nằm mộng, khổ chẳng
thể nói nổi, hễ tỉnh giấc mới biết là
một giấc mộng. Chúng sanh luân hồi trong lục
đạo là như vậy, chịu khổ, hưởng
vui trong lục đạo, ngày nào tỉnh giấc, giác ngộ,
lục đạo bèn chẳng c̣n nữa, mới biết là
một giấc mộng to lớn. Lời Vĩnh Gia
đại sư đă nói là lời thật, chẳng phải
là giả. “Hội trung chư
đại sĩ giai viên cụ Quyền Thật nhị
đức” (Các vị đại sĩ trong hội đều
đầy đủ trọn vẹn hai đức Quyền
và Thật), viên măn trọn đủ hai đức ấy. “Cố vân: Thử chư Bồ
Tát, diệc phục như thị” (V́ thế nói: “Các vị
Bồ Tát ấy cũng giống như thế”). Đây là lời
tổng kết một đoạn ngắn, [ư nói] các vị
Bồ Tát ấy đều có trí huệ và đức hạnh
ấy.
Chúng ta học Phật phải ghi
nhớ: Thật sự muốn cầu văng sanh th́ phải tŕ
giới, phải khổ hạnh. Trước khi diệt độ,
Thích Ca Mâu Ni Phật răn dạy đệ tử, đức
Phật chẳng c̣n hiện diện trong thế giới này
th́ hăy “lấy khổ làm
thầy, lấy giới làm thầy”. Bất luận quư
vị học Thiền Tông, học Giáo Hạ, học Hiển,
học Mật, học Đại Thừa, học Tiểu
Thừa, chỉ cần là học Phật th́ điều này
là căn bản, [tức là] “lấy
giới làm thầy” là căn bản, “lấy khổ làm thầy” là căn bản. V́ sao
chẳng tŕ giới tốt đẹp? Sợ chịu
khổ, như vậy là chẳng được rồi! Quư
vị thật sự muốn thành tựu, phải nhẫn được
điều này, chịu được nỗi khổ kẻ
khác chẳng thể chịu, nhẫn được nỗi
nhục chẳng thể nhẫn, nay chúng ta gọi [nỗi
nhục ấy] là “nhục nhă”, có thể nhẫn được.
Thực hiện giới luật từ chỗ nào? Phải
bắt đầu bằng Đệ Tử Quy. Đối
với Phật giáo hiện thời, chúng tôi đă đến
nhiều nơi thuộc các quốc gia, tiếp xúc các vị
đồng tu học Phật trong giới Hoa kiều đă
nhiều năm, khiến cho chúng tôi nhận thấy hàng xuất
gia học Phật chẳng thể hành Sa Di Luật Nghi, hàng
tại gia chẳng thể hành Thập Thiện Nghiệp Đạo;
do vậy, họ chẳng thể thành tựu. Chẳng phải
là họ không nỗ lực, tôi gặp những người
tham Thiền, có người học Giáo, có người học
Mật, v́ sao họ chẳng thể thành tựu? Đừng
nói là so với cổ nhân, ngay cả so với người thuộc
thế hệ trước mà đă thua kém rồi! Rốt
cuộc, nguyên nhân ở chỗ nào? V́ sao người trước
kia có thể làm được, nhưng người hiện
thời chẳng làm được? Thâm nhập quan sát mới
bèn phát hiện, người thuộc thế hệ chúng ta đă
sơ sót trong giáo dục vun bồi căn bản! Chẳng
thể nào chê trách người trong thế hệ này được!
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói
một lời công bằng: “Tiên
nhân bất thiện (vô tri), bất thức đạo
đức, vô hữu ngữ giả, thù vô quái dă” (người
đời trước chẳng lành (không hiểu biết),
chẳng biết đạo đức, chẳng có ai nói với
họ, trọn chẳng đáng trách). Dường như là
nói với người trong thế hệ này, v́ cha mẹ họ
chẳng biết, sanh trong thời hoạn nạn mà! Ông bà của
kẻ ấy cũng chẳng biết, dẫu là ông bà cố
của họ, gần như thuộc vào lớp tuổi tôi,
vẫn chưa hoàn toàn biết. Vẫn phải là đời
trước của tôi, tức là kể đến đời
cha của tôi th́ mới biết. Họ sống vào thời đầu
Dân Quốc, tuy văn hóa truyền thống Trung Quốc đă
bị coi nhẹ, nhưng vẫn c̣n ảnh hưởng. Đến
thế hệ chúng tôi, hăy c̣n chịu ảnh hưởng đôi
chút, chứ người trẻ hơn tôi đôi ba tuổi đă
chẳng biết nữa! Tôi có một người em trai nhỏ
hơn tôi sáu tuổi, căn bản là anh ta chẳng biết!
Làm sao quư vị có thể trách móc
người hiện thời? Cho nên chẳng thể trách móc
họ, hăy khéo dạy bảo họ học tập bổ
sung những môn học ấy, học bù! Lúc bé chẳng học,
nay đă giác ngộ, nếu muốn thật sự thực
hiện, nhất định phải học bổ sung các môn
học ấy; v́ nếu chẳng có những môn học ấy,
quư vị chẳng có căn bản, siêng khổ nỗ lực
cả đời, nhưng chẳng thể thành tựu! Giống
như cây cối, hoa cỏ, chẳng có rễ, quư vị cắm
hoa trong b́nh, vun quén th́ nó cũng có thể nở hoa, nh́n cũng
đẹp lắm, nhưng chẳng thể kết trái. Chớ
nên không hiểu đạo lư này!
Đối với chuyện giáo
dục con cái, cổ nhân Trung Quốc hết sức nghiêm
ngặt, hết sức coi trọng. Gia tộc quư vị
trong tương lai có thể hưng vượng hay không, có
thể phát đạt hay không, hoàn toàn cậy vào mai sau có nhân tài xuất hiện hay không? V́ thế,
rất coi trọng chuyện dạy dỗ con cái. Bắt
đầu dạy từ khi nào? Từ lúc có mang bèn bắt đầu
dạy, gọi là “thai giáo”. Trẻ
nhỏ vừa sanh ra, biết nh́n, biết nghe, quư vị
ngàn muôn lần chớ nên nghĩ rằng nó chẳng
hiểu chuyện, [nếu nghĩ như vậy], quư vị
đă sai mất rồi! Nó rất thông minh, cái ǵ cũng đều
biết, chỉ là chưa thể nói. V́ thế, Đệ
Tử Quy chẳng phải là để dạy trẻ nhỏ
học, hoặc dạy chúng nó đọc, mà là ǵ? Cha mẹ
phải thật thà thực hiện Đệ Tử Quy, làm
cho trẻ thơ xem. “Dạy
con từ thuở c̣n thơ”, khiến cho đứa bé ấy,
tức là trước khi nó tṛn ba tuổi, từ mới
sanh ra cho đến ba tuổi là một ngàn ngày, một ngàn
ngày ấy gọi là “vun bồi căn bản giáo dục”.
Trong một ngàn ngày ấy, người mẹ rất nhọc
nhằn, thời thời khắc khắc chăm sóc nó. Nói đúng
ra là nó xem thấy, nghe thấy, tiếp xúc toàn là những điều
tốt đẹp, quyết định chớ để nó
tiếp xúc, hoặc trông thấy những điều xấu
xa. V́ vậy, cha mẹ đă thực hiện Đệ
Tử Quy trước mặt con, trẻ thơ đă được
học, mỗi ngày nó đều xem và nghe. V́ thế, ngạn
ngữ cổ Trung Quốc có câu: “Tam
tuế khán bát thập”, [nghĩa là] trẻ thơ cho đến
ba tuổi đă được vun bồi cội rễ th́
đến tám mươi tuổi cũng chẳng bị biến
đổi, rễ sâu cội vững mà! Do đó, giáo
dục luân lư và giáo dục đạo đức
đều do cha mẹ thực hiện cho trẻ thấy,
dụng tâm như thế đó! Trẻ cũng biết, cũng
làm được, nhưng v́ sao phải làm như vậy,
nó chẳng biết. Đến sáu, bảy tuổi đi
học, dần dần hiểu chuyện, thầy tiếp tục
nêu gương cho nó thấy; v́ thế, thầy là “thân hành, ngôn giáo”. Trẻ nhỏ
dần dần hiểu chuyện, bèn giảng cho nó nghe v́ sao
phải hiếu thuận cha mẹ? V́ sao em phải tôn kính anh,
anh phải bảo vệ em? Giảng những đạo lư
gần gũi, dễ hiểu cho nó nghe, dần dần nó sẽ
hiểu, sự giáo dục này rất trọng yếu. Bởi
lẽ đó, trẻ nhỏ Trung Quốc [thuở ấy] năm,
sáu tuổi cũng rất biết lễ phép, giống như
một người lớn thu nhỏ.
Hiện thời chẳng c̣n nữa,
ngày nay giáo dục trong gia đ́nh chẳng c̣n nữa. Sự
giáo dục trong nhà trường chẳng có môn này, giáo dục
xă hội càng chẳng cần nhắc đến nữa!
Ngay cả giáo dục tôn giáo cũng chẳng nói đến.
Hỏng rồi! V́ thế, toàn thể xă hội hiện thời
động loạn là do nguyên nhân nào? “Thất giáo” (chẳng dạy), hai chữ mà thôi!
Giáo dục truyền thống bị vứt bỏ, giáo dục
tôn giáo bỏ luôn, xă hội biến thành nông nỗi này! Tháng
Sáu năm nay, chúng tôi cùng đi với đoàn phỏng vấn
tôn giáo Mă Lai đến thăm Phạm Đề Cương
(Vatican), gặp gỡ Giáo Hoàng của Thiên Chúa Giáo, trao đổi
với đại chủ giáo (tổng giám mục) của họ.
Họ cũng ư thức điều này, cũng biết vấn
đề này rất nghiêm trọng. Do vậy, trong bản báo
cáo, tôi đặc biệt nêu lên sự giáo dục tôn giáo. V́
trên cả thế giới hiện thời, các nhân sĩ
trong giới học thuật, các thanh thiếu niên học
sinh đều nghĩ tôn giáo là mê tín. Người tin theo tôn
giáo mỗi năm một ít hơn. Phật giáo chúng ta chẳng
có thống kê, chứ Thiên Chúa Giáo có thống kê, hằng năm
người chịu rửa tội ít hơn. Chúng tôi cũng
đă từng gặp rất nhiều lần, có rất nhiều
người chất vấn, nghi ngờ tôn giáo có cống hiến
ǵ cho xă hội? “Chẳng có cống hiến, chẳng có lợi
ích, đương nhiên sẽ bị đào thải”, họ
suy nghĩ như vậy đó!
Trong
quá khứ, tôn giáo có cống hiến cho xă hội, v́ sao? Tôn
giáo dạy dỗ, đặc biệt là Phật giáo. Phật
giáo vào thời cổ, tự viện am đường là trường
học. Ḥa Thượng Thủ Tọa phân ṭa giảng kinh,
đó là giáo học. Một ngôi chùa có vài vị Ḥa Thượng
Thủ Tọa, quư vị thích học bộ kinh điển
nào, có thể vào pḥng học của vị đó, thật sự
có thể học được thứ này, thứ nọ,
họ dạy học mà! V́ thế, chúng tôi cực lực đề
xướng tôn giáo phải quay về giáo học. Hiện
thời nhằm đúng lúc gia đ́nh, nhà trường và xă
hội đều chẳng dạy luân lư đạo
đức nữa, chúng ta có thể trích lục những
kinh luận liên quan tới luân lư, đạo đức,
nhân quả trong các kinh điển tôn giáo, bản thân chúng ta
nghiêm túc học tập, phổ biến nhằm dạy bảo
đại chúng trong xă hội, bù đắp giáo dục xă hội
trong hiện tại đă thiếu mất ba thứ ấy
(luân lư, đạo đức, nhân quả) th́ tôn giáo sẽ có
cống hiến vô cùng to lớn đối với xă
hội. Người ta chẳng c̣n có thể nói “tôn giáo chẳng
có cống hiến ǵ đối với xă hội”, v́ chúng ta
có những thứ tốt đẹp này! Phải thật sự
làm, phải hiểu, phải biết giá trị. Bản thân
chúng ta tu học, chính ḿnh đạt được lợi
ích, tôi thường nói là lợi ích cá nhân là khỏe
mạnh, sống lâu. Tôi chẳng có đạo tràng, nếu
có đạo tràng, đạo tràng ấy ḥa hài, sự nghiệp
hoằng pháp lợi sanh thuận lợi, chắc chắn là
như thế! Tại gia cư sĩ, gia đ́nh hạnh
phúc, sự nghiệp thuận lợi, đại chúng trong
hoàn cảnh cư trụ đều có thể ḥa hài, điều
này tốt lắm! Thật sự có sự tốt đẹp
này, thật sự có cống hiến. V́ thế, trong sự
nhận thức của chúng tôi về tôn giáo, các tôn giáo
đều tốt đẹp. [Tôn giáo có] những ảnh hưởng
tiêu cực là do trong tôn giáo hiện thời, những người
học tập tôn giáo chẳng nghiêm túc nỗ lực, cũng
bị thế tục nhuốm dơ, tức là [bị cuốn
hút] vào danh vọng, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn,
hỏng rồi, toàn thể tôn giáo bị hủy hoại. Do
vậy, chúng ta phải nhận thức rơ ràng: Bản thân tôn
giáo chẳng có vấn đề, mà là tín đồ tôn giáo
có vấn đề, họ chẳng nghiêm túc học
tập. Nếu họ nghiêm túc học tập th́ tín đồ
tôn giáo ai nấy đều là người tốt, ai nấy
đều có cống hiến rất lớn đối
với xă hội. Chúng ta chớ nên không hiểu rơ ràng, rành rẽ
điều này.
Lại xem đoạn kinh văn
tiếp theo. Đoạn kinh văn này từ “thông chư Pháp Tánh, đạt
chúng sanh tướng” (thông hiểu các pháp tánh, thấu đạt
tướng của chúng sanh) cho đến đoạn kết
thúc “thiện lập
phương tiện, hiển thị Tam Thừa” (khéo lập
phương tiện, hiển thị Tam Thừa). Đoạn
này nhằm dạy chúng ta siêu t́nh ly kiến, triệt
để buông xuống. Do kinh Vô Lượng Thọ thông với
kinh Hoa Nghiêm, mục tiêu chung trong sự học tập là dạy
chúng ta minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, nên
mới có kinh văn như vậy. Trong kinh Tiểu Thừa,
chẳng thấy kinh văn như thế. “Thông chư pháp tánh”, “chư”
(諸) là chư pháp, tánh
của chư pháp là một tánh, giống như Hiền Thủ
quốc sư đă nói “tự tánh
thanh tịnh viên minh thể”, trong triết học gọi
điều này là “bản
thể”. Hiện thời, triết học và khoa học
trên cả thế giới đều chẳng nói đến
mức độ này, mà nói “từ một Thể khởi lên
hai tác dụng”. V́ vậy, khoa học cũng đúng là khó có,
thật sự chẳng dễ dàng, chỉ là họ chưa
t́m được căn nguyên. Căn nguyên là tự tánh, ư
thức của chúng ta duyên không tới, dùng máy móc tinh vi cũng
chẳng nh́n thấy, v́ nó chẳng phải là hiện
tượng vật chất, mà cũng chẳng phải là
hiện tượng tinh thần, máy móc tinh vi cỡ nào cũng
vô dụng đối với nó! Chỉ có chứng mới
biết, thật sự triệt để buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quư
vị bèn chứng đắc; đó là căn nguyên của vạn
sự vạn pháp trong vũ trụ, [đó là] Pháp Tánh. Thiền
Tông gọi “thông chư pháp tánh”
là minh tâm kiến tánh. “Đạt
chúng sanh tướng”: Phần trên (tức “thông chư pháp tánh”) là Thật
Trí, phần dưới (“đạt
chúng sanh tướng”) là Quyền Trí. “Đạt chúng sanh tướng” là Nhất Thiết
Chủng Trí. Vạn sự vạn pháp trong vũ trụ v́
sao có thể phát sanh? Phát sanh như thế nào? V́ sao có thể
biến hóa? Quư vị biết toàn bộ những chuyện ấy
th́ là “đạt chúng sanh
tướng”.
Chúng ta xem cụ Hoàng Niệm Tổ
giải thích: “Pháp Tánh, hựu
danh Thật Tướng, hựu danh Chân Như” (Pháp Tánh
c̣n gọi là Thật Tướng, c̣n gọi là Chân Như),
chữ “hựu danh” (又名:
lại c̣n gọi) áp dụng
cho tất cả [những danh từ] sau đó, tức là “hựu danh Pháp Giới, hựu
danh Niết Bàn, hựu danh Thật Tế đẳng” (c̣n
gọi là Pháp Giới, c̣n gọi là Niết Bàn, c̣n gọi là
Thật Tế v.v…), phía sau hăy c̣n [nhiều danh từ] nữa.
Trong kinh, đức Phật nói tới Pháp Tánh, bèn nói các danh
tự của nó nhiều tới khoảng chừng mấy
chục tên, tổng cộng chừng sáu mươi, bảy
mươi danh từ. V́ sao đức Phật nói ra lắm
từ ngữ như vậy? Đây là phương tiện
thiện xảo trong giáo học, nhằm dạy chúng ta chớ
nên chấp trước tướng danh tự. Tướng
danh tự chẳng thật, hiểu ư nghĩa của chúng là
được rồi, giúp chúng ta phá chấp trước.
Hễ chấp trước th́ sai mất rồi, chớ nên
chấp trước! Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ
Tát đă dạy chúng ta thái độ học tập, Ngài nói
rất hay: Nghe kinh cần phải có tâm thái ǵ để nghe?
Đầu tiên là “ly ngôn
thuyết tướng”, lời lẽ của người
ấy (người giảng pháp) nhiều hơn hoặc ít
hơn mấy câu, nói sâu hay nói cạn, chẳng quan trọng!
Chớ nên chấp trước tướng ấy. Điều
thứ hai đừng chấp trước danh tự tướng,
tức là “ly danh tự
tướng”, [“danh tự”] là danh từ, thuật
ngữ, như [các từ ngữ] “Pháp Tánh, Thật Tướng” được nói đến
ở đây. “Chân Như, pháp
giới, Niết Bàn” đều là các danh từ thuật
ngữ trong Phật học, chớ nên chấp trước,
hăy hiểu ư nghĩa của chúng, đừng nên chấp
trước. Điều thứ ba là “ly tâm duyên tướng”, quư vị đừng suy
nghĩ những ư nghĩa trong kinh. V́ sao? Quư vị suy nghĩ
tức là vọng tưởng, đó chẳng phải là ư
nghĩa của Phật, mà là ư nghĩa của chính quư
vị. Kinh Phật có ư nghĩa hay không? Thưa thật thà cùng
quư vị, kinh Phật chẳng có ư nghĩa ǵ! Chẳng có ư
nghĩa mới là lưu lộ từ tự tánh. Có ư
nghĩa là phàm phu, lưu xuất từ trong A Lại Da của
quư vị, đó là phàm phu. Bởi lẽ đó, kinh Phật chẳng
có ư nghĩa, phải hiểu điều này!
Quư vị suy nghĩ như thế
nào th́ đó là ư nghĩa của chính quư vị, chẳng
phải là ư nghĩa của Phật. Kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân
thật nghĩa”, Như Lai chẳng có nghĩa chân
thật, chẳng có ư, quư vị giải thích bằng cách nào?
Đến khi nào quư vị có thể thật sự hiểu
nghĩa chân thật? Khi tâm thanh tịnh hiện tiền, chiếu
kiến, chẳng phải là “tưởng
kiến” (sự thấy biết do suy tưởng), tâm b́nh
đẳng hiện tiền, tâm thanh tịnh hiện
tiền, quư vị sẽ có thể đạt được
vài phần nghĩa chân thật của Như Lai. A La Hán, Bích
Chi Phật đă chứng đắc v́ các Ngài chẳng chấp
trước, đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian chẳng chấp trước. Bồ
Tát cao hơn một bậc, Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh
Giác, Bồ Tát sử dụng tâm b́nh đẳng. Không chỉ
chẳng có chấp trước, mà phân biệt cũng chẳng
có. Phân biệt đoạn hết, tức là đă đoạn
Trần Sa Hoặc, đoạn hết chấp trước
là đoạn hết Kiến Tư Hoặc, nên Bồ Tát có
thể hiểu được nghĩa chân thật
nhiều phần, tức là Ngài thấu hiểu hơn một
nửa, trọn chẳng phải là dùng tưởng, hễ
tưởng tức là trật rồi! Tưởng là ǵ? Rơi
vào thức thứ sáu, tức Ư Thức. V́ thế, hiện
thời học kinh giáo gặp khó khăn ở chỗ nào? Khó
khăn ở ngay chỗ này, suy tưởng nhiều quá! Vừa
nh́n, bèn nghĩ cái này có ư nghĩa ǵ, cái kia có ư nghĩa ǵ, hoàn
toàn là ư tứ của chính ḿnh. Đây là chuyện rất khó
khăn. V́ vậy, chúng ta học Giáo, nếu không gặp được
một vị thầy thật sự tốt đẹp, lúc
vỡ ḷng bèn chỉ điểm chúng ta,chúng ta sẽ đi
lầm chỗ, biến thành ǵ? Biến thành đạt được
lắm tri thức, tức là thường thức trong kinh Phật,
đều do chúng ta suy tưởng, biến thành tri thức,
mà quư vị cứ ngỡ chúng là trí huệ; chúng ta đă biến
trí huệ thành tri thức, hao hụt quá lớn! Trí huệ
có thể giải quyết vấn đề, tri thức chẳng
thể!
Sau
khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc, thế
giới này chưa hề thái b́nh. Kể từ thập niên
70, mỗi năm Liên Hiệp Quốc triệu tập hội
nghị ḥa b́nh quốc tế, mời mọc các chuyên gia, học
giả thảo luận [cùng một] chủ đề suốt
ba mươi năm chẳng thay đổi: “Làm thế nào để tiêu diệt
xung đột, xúc tiến xă hội an định, thế
giới ḥa b́nh?” Đă mở hội nghị hơn ba mươi
năm với chủ đề ấy. Trước sau, tôi
tham gia mười lần, tôi mới liễu giải trạng
huống sự thật. Có hiệu quả hay không? Chẳng
có hiệu quả! Quư vị thấy tần số xung đột
xă hội mỗi năm một cao hơn, vấn đề
ngày càng nghiêm trọng hơn. Chẳng phải là họ không
quan tâm chú ư, họ thật sự quan tâm chú ư, v́ sao chẳng
thể giải quyết vấn đề? Chúng tôi tham
dự bèn liễu giải, tri thức đấy mà! Các học
giả và chuyên gia đều có học thức vô cùng phong
phú, nhưng chẳng phải là trí huệ! Tri thức
giải quyết vấn đề là cục hạn, đau
đầu bèn chữa đầu, đau chân bèn chữa chân,
chẳng thể trị dứt tận gốc, để lại
một đống lớn hậu quả! Trí huệ chẳng
như vậy! Tại Liên Hiệp Quốc, chúng tôi cống
hiến rất đơn giản, rất trực tiếp
báo cáo cùng mọi người, vấn đề phát sanh
ở chỗ nào? Phát sanh từ giáo dục, con người do
dạy dỗ mà thành tốt đẹp, cũng do dạy dỗ
mà trở thành xấu xa, tùy thuộc cách dạy của quư vị
như thế nào? Trong cả thế giới hiện thời,
ai dạy? Chánh phủ các nước thiếu sót, sơ sót
trong giáo dục nhân văn, thiếu sót giáo dục cách làm người,
chỉ biết đến khoa học kỹ thuật. Phương
diện ấy đột nhiên phát triển mạnh mẽ,
nhưng chẳng biết làm người! Thiếu sót trong
giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, cho nên
mới dẫn đến xă hội động loạn,
mới đem lại tai hại trên địa cầu,
vấn đề ở chỗ này. Dùng phương pháp ǵ để
đối trị? Hăy nhanh chóng t́m lại giáo dục luân lư,
đạo đức, nhân quả, bèn có thể giải
quyết vấn đề, đặc biệt là tôn giáo. Tôn
giáo có thể cống hiến rất tốt trong vấn
đề này, v́ trong kinh điển của mỗi tôn giáo lớn
trên thế giới đều có tài liệu giáo huấn rất
phong phú về luân lư, đạo đức, nhân quả. Nếu
có thể triệu tập những người ấy, [tức
là] những nhà tôn giáo thật sự nhiệt tâm, có thể thật
sự hy sinh dâng hiến, bỏ ḿnh v́ người, có được
chừng năm sáu mươi người như vậy, Liên
Hiệp Quốc sắp xếp để họ mỗi ngày
lợi dụng [truyền h́nh] vệ tinh hoặc Internet, những
công cụ ấy rất tốt, để giảng học
cho mọi người trên toàn bộ thế giới. Tôi tin
là trong một năm thiên hạ sẽ thái b́nh. Tôi báo cáo như
vậy rất nhiều lượt, thính giả cũng
rất vui vẻ, nhưng từ đầu tới cuối
chẳng thực hiện, đó là “nghị nhưng chẳng
quyết, quyết nhưng chẳng làm!” Hiện thời, tôi
không tham gia hội nghị ấy nữa, tuổi đă cao
rồi, để cho người trẻ tuổi tiếp tục
làm. Như vậy là dẫu vấn đề khó khăn đến
mấy, Phật pháp đều có phương pháp giải
quyết.
Trước tiên, nêu ra mấy
danh từ Pháp Tánh, sau đấy lại giảng Tánh là ǵ? [Tánh
là] Thể, bản thể, nó có thể sanh, có thể
hiện. Tuy nó chẳng phải là tinh thần, mà cũng chẳng
phải là vật chất, nó có thể hiện tinh thần
và vật chất, nó là bản thể của tinh thần và
vật chất. Triết học nói vạn hữu trong
vũ trụ có bản thể, nhưng măi cho đến hiện
thời vẫn chẳng có kết luận nhất định.
Nói rất nhiều thứ, vẫn chẳng thể khiến
cho người ta tâm phục, khẩu phục. Trong Phật
pháp dùng chữ Tánh này để nói, có rất nhiều tên gọi
khác biệt, “Thể dă” (Tánh
là Thể). “Nhất thiết pháp
chi tự thể, danh vi Pháp Tánh” (tự thể của hết
thảy các pháp gọi là Pháp Tánh). Tổ tiên xa xưa của
người Trung Quốc cũng nói, tổ tiên gọi nó là “bổn tánh”, quư vị thấy
sách vở xưa đă nói: “Bổn
tánh bổn thiện” (bổn tánh vốn lành). Tam Tự
Kinh là sách để dạy vỡ ḷng cho trẻ nhỏ, quư
vị nghĩ xem [tổ tiên] đă dạy trẻ nhỏ câu
đầu tiên: “Nhân chi sơ, tánh
bổn thiện” (con người thoạt đầu tánh
vốn lành). Bổn tánh vốn thiện, thiện ở đây
chẳng phải là thiện trong “thiện
- ác”. Thiện trong “thiện
- ác” có mức độ rất thấp, thiện ở đây
là “viên măn cụ túc” (trọn
đủ viên măn) như nhà Phật đă nói, có ư nghĩa này.
Đây là một tán thán từ, là một h́nh dung từ, nhằm
tán thán nó viên măn, chẳng có mảy may khiếm khuyết nào,
trọn đủ! Trong Phật pháp đă nói, tức là trong
kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như
Lai”, Như Lai là tự tánh. Trong tự tánh của hết
thảy chúng sanh có trí huệ và đức năng viên măn (nay
chúng ta nói là “năng lực”), có tướng hảo viên măn.
Trí huệ và đức năng giống hệt như A Di Đà
Phật, c̣n tướng hảo giống như thế
giới Cực Lạc được nói trong kinh này. Trong tự
tánh của hết thảy chúng sanh thảy đều có, là
b́nh đẳng. V́ vậy, sự b́nh đẳng được
nói trong nhà Phật là b́nh đẳng thật sự, chúng sanh
và Phật b́nh đẳng. Tự thể của hết
thảy các pháp được gọi là Pháp Tánh.
“Như
Khởi Tín Luận Nghĩa Kư viết” (như Khởi Tín
Luận Nghĩa Kư nói). Nghĩa Kư là sách chú giải Khởi
Tín Luận, do pháp sư Pháp Tạng ghi chép, tôi chẳng nhớ
rơ lắm, tôi đă đọc sách này. Trong ấy có nói: “Pháp Tánh giả, minh thử chân
thể phổ biến nghĩa, thông dữ nhất
thiết pháp vi tánh” (Pháp Tánh, hiểu rơ ư nghĩa phổ
biến này của chân thể, là tánh của khắp hết
thảy các pháp). Hai câu này viết rất hay, “minh” (明) là quư vị thấu hiểu, đă biết
rơ. “Chân thể phổ biến
nghĩa”: Toàn thể vũ trụ, kể cả hư không
pháp giới, đều do nó (Pháp Tánh) biến hiện. V́ thế,
hư không chẳng thật, “có thể biến, có thể
hiện” mới là thật, c̣n “cái được biến,
cái được hiện” là giả, chẳng thật. “Thông ư nhất thiết pháp vi
tánh”: Thể của hết thảy vạn sự vạn
vật trong pháp giới hư không giới là Pháp Tánh. Nói cách
khác, ĺa khỏi Pháp Tánh, sẽ chẳng có một pháp nào để
có thể được, pháp là tướng. Cổ nhân có tỷ
dụ rất hay, như vàng chế thành đồ vật,
món nào cũng đều là vàng. Chúng ta dùng hoàng kim, hoàng kim là
Thể, tỷ dụ Pháp Tánh, dùng nó làm thành các thứ vật
dụng, quá nhiều vật dụng, chẳng có cùng tận!
Năm xưa tôi ở Mỹ, có một đồng tu là tại
gia cư sĩ làm đồ châu báu. Ông ta chẳng phải làm
đồ thật, mà làm đồ giả, tức là đồ
trang sức bằng vàng, là đồ mạ vàng. Chẳng phải
là vàng ṛng, mà là vàng mạ. Có một hôm, ông ta dẫn tôi đến
thăm pḥng triển lăm, chính ông ta có công xưởng, chẳng
phải là buôn bán nhỏ, mà là sản xuất để phân
phối. V́ thế, có rất nhiều người
đến đánh giá hàng hóa, đều trước hết
đến thăm các mặt hàng triển lăm, chọn lựa
kiểu mẫu tại đó. Tôi đến xem, hơn hai vạn
món, lóng lánh chói mắt, đẹp đẽ khôn xiết! Tôi
nghĩ kinh đă dạy: “Dùng
vàng làm vật dụng, món nào cũng đều là vàng”,
hoàn toàn có thể thấy được tại nơi đó,
toàn là vàng. Ông ta làm đồ trang sức giá rẻ, món đắt
nhất không hơn hai mươi đồng Mỹ kim, món
rẻ chỉ có mấy đồng, năm sáu đồng,
nên người b́nh phàm rất ưa thích, bị mất chẳng
tiếc! Các món trang sức giả ấy
rất nổi tiếng ở ngoại quốc, được
người ta hết sức hoan nghênh, đồ thật
bị mất sẽ đau ḷng, đồ giả bị
mất chẳng xót ruột. Hơn nữa, nh́n bề ngoài
c̣n đẹp mắt hơn đồ thật. Chúng ta dùng những
thứ này để làm tỷ dụ cũng rất thích
hợp. Vàng là tánh, hết thảy các pháp là các món vật.
Rời khỏi vàng, chẳng có đồ vật, tất
cả hết thảy các món kim khí đều làm bằng
vàng. Điều này nêu rơ mối quan hệ giữa Tánh và Tướng.
Tướng do Tánh biến hiện, [Tánh] có thể sanh, có
thể hiện. C̣n như nó biến hóa, đó là Thức. Do
tự tánh hiện, nó hiện, nó sanh, nó hiện, đó là
thế giới ǵ? Cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật
Như Lai. Do vậy, trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm chẳng có
biến, người trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm là vô lượng
thọ, chẳng bị già yếu, chẳng thay đổi!
Trong cơi Thật Báo, cây cối, hoa quả xanh tươi măi
măi, lá cây chẳng úa vàng, thật sự vĩnh viễn chẳng
rụng. V́ sao? Nó chẳng biến, có thể sanh, có thể
hiện, chẳng biến đổi. V́ sao? Nó chẳng có A
Lại Da.
“Hựu,
Duy Thức Thuật Kư viết: Tánh giả, Thể dă.
Nhất thiết pháp thể, cố danh Pháp Tánh” (Lại
nữa, sách Duy Thức Thuật Kư giảng: “Tánh là Thể.
Do là Thể của hết thảy các pháp, nên gọi là Pháp
Tánh”). Điều này có ư nghĩa giống như đă giảng
trong phần trên, Duy Thức Thuật Kư là tác phẩm của
Khuy Cơ đại sư, Ngài là tổ sư của Pháp Tướng
Tông, Ngài cũng nói rơ mối quan hệ giữa Tánh và Tướng.
Lại xem tiếp: “Hựu Đại
Thừa Nghĩa Chương nhất, viết” (Lại nữa,
sách Đại Thừa Nghĩa Chương quyển một
viết), “nhất” là quyển
thứ nhất. Trong ấy, nói: “Pháp
chi thể tánh, cố vân Pháp Tánh” (là thể tánh của các
pháp, nên gọi là Pháp Tánh). Đó là những điều được
nói trong các kinh luận. Sau đó, cụ Niệm Tổ tổng
hợp lại để giải thích: “Cố tri Pháp Tánh năi vạn pháp chi Thể” (Do vậy
biết, Pháp Tánh là Thể của vạn pháp), chúng ta phải
nhận rơ điều này. “Tại
nhiễm, tại tịnh, tại hữu t́nh số, tại
vô t́nh số, kỳ tánh vô hữu cải biến, cố
danh Pháp Tánh” (Trong nhiễm hay tịnh, trong các pháp hữu
t́nh hay vô t́nh, tánh ấy chẳng thay đổi, nên gọi
là Pháp Tánh). Đặc biệt là trong mười pháp
giới, nó biến hóa rất nhiều, chẳng cùng tận.
Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc
sư gọi điều này là “xuất
sanh vô tận”. Sách Hoàn Nguyên Quán giảng hiện
tượng vật chất và hiện tượng tinh
thần đều có ba thứ công năng, các công năng ấy
thù thắng khôn sánh:
Thứ
nhất là “trọn khắp pháp
giới”. Bất luận là tâm pháp hay sắc pháp, sắc
pháp là vật chất, tâm pháp là tinh thần. Trong tự tánh,
tinh thần c̣n được gọi là “kiến, văn, giác, tri” (thấy, nghe, hay, biết),
v́ nó chẳng có phân biệt. Trong cơi Thật Báo cũng gọi
là “kiến, văn, giác, tri”,
trong mười pháp giới, chúng được gọi là
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thọ là cảm nhận,
Tưởng là ư niệm, Hành là chẳng trụ, niệm trước
diệt, niệm sau sanh, niệm này tiếp nối niệm
kia, Thức là Thể của nó. Nói thật ra, thức ấy
là Pháp Tánh, trọn chẳng tách ĺa Lư Thể. Vật chất
và tinh thần đồng thời phát sanh, vĩnh viễn chẳng
tách rời, một Thể mà!
Nói theo lư luận, tinh thần có trước,
vật chất có sau. Trong A Lại Da, quư vị thấy Nghiệp
Tướng, Nghiệp Tướng là năng lượng, là
hiện tượng dao động; Chuyển Tướng là
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nếu nói theo A Lại
Da Thức, nó là Thọ, Tưởng, Hành, Thức; Cảnh Giới
Tướng là vật chất. Kinh Phật thường gộp
chung [các tướng ấy] thành Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức là hiện tượng tâm lư, chúng
vĩnh viễn ở cùng một chỗ, chẳng thể tách
rời, chẳng tách rời được! Hiện tượng
vật chất là hiện tượng có dao động. Mỗi
loại trong bốn loại Thọ, Tưởng, Hành,
Thức đều có hiện tượng dao động. Sự
dao động ấy bất luận là hữu ư hay vô ư, hữu
tâm hay vô tâm, hễ động bèn trọn khắp thế giới,
đấy là đặc tánh thứ nhất. Nó nhanh chóng, tốc
độ lẹ làng. Nếu chúng ta hiểu chân
tướng sự thật này, quư vị bèn rơ ràng, minh bạch.
Ư niệm của quư vị vừa động, bất luận
là hữu ư hay vô ư, chẳng cần biết là hữu tâm hay
vô tâm, một thiện niệm của quư vị vừa động
bèn trọn khắp pháp giới. Người đạt được
tâm thanh tịnh trong khắp pháp giới hư không giới đều
có thể nhận được tin tức của quư vị.
Quư vị động một ác niệm, có chỗ nào lừa
người khác được chăng? Chẳng có! Chẳng
thể nào! Quư vị gạt không được! Bởi lẽ,
Ngũ Uẩn của chính quư vị là đài phát sóng, mà cũng
là đài thu sóng, có thể tiếp nhận tin tức trong khắp
pháp giới hư không giới, có thể tiếp nhận, có
thể phát ra, chẳng có chuyện ǵ có thể gạt gẫm
người khác được! Những người
ấy là Pháp Thân Bồ Tát, hoặc chư Phật Như Lai,
chẳng có cách nào giấu diếm các Ngài được, các
Ngài hoàn toàn biết.
Thấp hơn là Quyền Giáo Bồ
Tát, Thanh Văn, Duyên Giác cũng đều biết, nhưng
các Ngài biết những ǵ thô hơn một chút, chứ những
thứ vi tế tột bậc các Ngài chẳng biết. Đức
Phật nói Bát Địa Bồ Tát biết những ư niệm
vi tế tột bậc. Chúng ta nghĩ đến Bát
Địa, Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng
Giác, Diệu Giác, đối với những người thuộc
năm địa vị ấy, dẫu vi tế đến
mấy đều biết. Nếu chúng ta thật sự hiểu
rơ, thật sự thông hiểu, chúng ta khởi tâm
động niệm đều chẳng dám có ác niệm. Người
đông ngần ấy đều thu được, [chúng
ta] phát ra ác niệm lẽ đâu chẳng biết xấu hổ?
Tự nhiên sanh ra một thứ sức mạnh ước
thúc, đó là chân tướng, chân tướng sự
thật đấy nhé. Đặc tánh thứ nhất là tốc
độ của nó quá nhanh, nhanh hơn vô tuyến
điện, nhanh hơn tốc độ ánh sáng! Ánh
nắng chiếu đến địa cầu c̣n phải mất
tám phút, niệm ấy vừa mới khởi lên đă trọn
khắp pháp giới. Quư vị thấy tốc độ của
Pháp Tánh nhanh quá! Mảy may chướng ngại đều
chẳng có!
Đặc tánh thứ hai là thiên
biến vạn hóa, “xuất
sanh vô tận”. Đối với cách nói trong đoạn
trước, chúng ta học tập chẳng hoài nghi, nhưng
đối với điều thứ hai là “xuất sanh vô tận”, ta bèn hoài nghi. V́ sao có thể
xuất sanh vô tận? Sức mạnh nào khiến cho nó có năng
lực to tát ngần ấy? Tôi cũng thường canh cánh
[nỗi nghi này] bên ḷng, rất lâu mà vẫn chưa thể
giải quyết. Khi giảng kinh Hoa Nghiêm, có một hôm chợt
nghĩ đến lúc bé chơi kính vạn hoa. Quư vị thấy
có người tặng tôi kính vạn hoa. Vật này rất
đơn giản, bên trong là ba miếng thủy tinh, bỏ
vào giữa đó mấy mảnh vụn có màu sắc khác
nhau. Quư vị xoay chuyển nó, xoay suốt một ngày, chẳng
ngừng xoay, chẳng nh́n thấy hai mẫu hoa giống
nhau. Quư vị thấy ngay cả vật như vậy mà c̣n
biến hóa vô cùng, xuất sanh vô tận. Tôi nghĩ công năng
của tự tánh c̣n lớn hơn rất nhiều. Được
chứng minh từ chuyện này, chẳng c̣n hoài nghi nữa,
kể cả kính vạn hoa cũng xuất sanh vô tận. Tiến
sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản làm thí
nghiệm với nước, rất có giá trị khoa học,
tôi đă đến thăm pḥng thí nghiệm của ông ta
hai lần, nghe ông ta báo cáo, chúng tôi đă biến thành bạn
bè thân thiết. Ông ta cho biết: Quan sát mô thức kết cấu
của nước kết tinh bằng kính hiển vi, mười
mấy năm qua, ông ta chẳng phát hiện có hai mô thức
tương đồng, chưa hề thấy [hai mô thức]
hoàn toàn giống nhau! Ông ta nêu ra vấn đề này hỏi
tôi: “Do nguyên nhân ǵ?” Tôi nói: Chẳng thể có hai mô thức
giống nhau là do nguyên nhân nào? Ư niệm của chúng ta biến
hóa trong từng sát-na. Dẫu chỉ có một ḿnh ta xem, ta đối
với nước ấy tâm yêu thích tràn trề, nó sẽ có
mô thức [kết tinh] rất đẹp. Ái tâm trong niệm
trước của ta khác ái tâm trong niệm thứ hai, chắc
chắn có sai biệt; do vậy, nó chẳng thể nào là một
tướng. Có [trường hợp các mô thức] tương
tự, nhưng chẳng thể nào hoàn toàn giống nhau. Ông
ta nghiền ngẫm đạo lư ấy. V́ sao? Nó sanh từ
tâm tưởng. Chứng tỏ nước có thể thấy,
nghe, hiểu ư nghĩ của con người. Tôi bảo ông
ta: - Không chỉ là nước, nước là vật
chất, tất cả hiện tượng vật chất
thảy đều có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩ
của con người. Chúng ta ngồi trong căn pḥng này, bàn,
ghế có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩ của ta. Trên
là trần nhà, dưới là sàn nhà, đều hiểu ư
nghĩ của ta, chúng cũng có thể thấy, có thể
nghe. Đó là ǵ? Đấy là bản năng (năng lực
sẵn có) của vật chất. Đă là vật chất
th́ nó bèn có hiện tượng tinh thần, tức là có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức; nói cách khác, Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức vĩnh viễn chẳng tách rời.
Nếu chúng ta thật sự
nhận biết điều này, sau đấy, quư vị lại
nghĩ: Trong kinh giáo, đức Phật đă dạy chúng
ta: “Tướng do tâm sanh,
cảnh chuyển theo tâm”. Chúng ta nghe hai câu ấy, trong
tâm cảm thấy dễ chịu. Thân thể của chúng ta
là tướng, tướng mạo bên ngoài là tướng, ngũ
tạng lục phủ bên trong cũng là tướng. Nếu
tâm ta là chánh, nếu tâm là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác,
thân thể sẽ vĩnh viễn chẳng ngă bệnh. Tuổi
tác mỗi năm một lớn hơn, nhưng chẳng già
yếu! Tướng do tâm sanh, tâm ta chẳng già, ư niệm
chẳng già, người làm sao có thể già cho được?
Già bằng cách nào? Hằng ngày nghĩ tới già: “Ta đă
già rồi, già khằng rồi!” Người ấy sẽ
thật sự già. Người già nghĩ tới bệnh tật,
cho nên bệnh ǵ cũng có. Hễ bệnh bèn nghĩ đến
cái chết, làm sao bất tử cho được? Sanh
từ tâm tưởng mà! Quư vị có thể thật sự
hoàn toàn gạt sạch những tư tưởng tiêu cực
sẽ tương ứng với tự tánh. Cảnh chuyển
theo tâm, “cảnh” là hoàn cảnh
cư trụ của chúng ta. Chúng ta ở trong cơi này, mỗi
ngày học tập đạo thánh hiền, hằng ngày học
Phật pháp, đó là “vô thượng thậm thâm vi diệu
pháp”, nơi ấy sẽ chẳng có tai nạn, mà cũng chẳng
có hạn hán, lũ lụt, động đất, băo lốc,
cảnh chuyển theo tâm mà! Nếu một phần trăm dân
cư Cát Long Ba (
Tập 114
“Gia
Tường Pháp Hoa Sớ ngũ viết: ‘Pháp Tánh tức
thị Thật Tướng, Tam Thừa đắc
đạo, mạc bất do chi’. Hựu Chỉ Quán nhất
viết: Pháp Tánh danh vi Thật Tướng, thượng phi
Nhị Thừa cảnh giới, hà huống phàm phu” (Bộ
Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường đă viết: “Pháp
Tánh chính là Thật Tướng, Tam Thừa đắc đạo
không ai chẳng do nó”. Lại nữa, sách Chỉ Quán giảng:
“Pháp Tánh có tên là Thật Tướng, c̣n chẳng phải là
cảnh giới của Nhị Thừa, huống ǵ phàm
phu”). Đoạn này vẫn nhằm giải thích “thông chư pháp tánh, đạt
chúng sanh tướng”, hai câu này là “thông đạt tánh - tướng”.
Trong phần trước, chúng ta thấy lăo cư sĩ Niệm
Tổ trích dẫn sách Duy Thức Thuật Kư của Khuy Cơ
đại sư và sách Đại Thừa Nghĩa Chương
nói về Pháp Tánh và Pháp Tướng. Hôm nay, chúng ta xem tiếp,
thấy trong Pháp Hoa Kinh Sớ cũng là ư nghĩa này. Pháp Tánh
là Thật Tướng, chúng ta đă học trong phần trước.
“Tam Thừa đắc
đạo, mạc bất do chi” (Tam Thừa đắc đạo,
không ai chẳng do nó). Tam Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ
Tát, thông thường c̣n gọi là Đại Thừa, Trung Thừa,
và Tiểu Thừa. Tu hành chứng quả đều là minh tâm
kiến tánh; trên thực tế, chỉ có Bồ Tát tu hành
mới là kiến tánh, kiến tánh bèn thành Phật. Trong Hoa
Nghiêm, họ c̣n được gọi là Pháp Thân Bồ Tát.
Kiến tánh là chứng đắc Pháp Thân; trong phần trước,
các đồng học chúng ta đều học tập cả
rồi. Bởi lẽ, chứng đắc Pháp Thân sẽ thật
sự hiểu được, khẳng định “hết
thảy vạn vật trong khắp pháp giới hư không
giới và chính ḿnh là một Thể”. Đó là kiến tánh, là
chứng đắc Pháp Thân. Chuyện này quả thật chẳng
dễ dàng, từ vô thỉ kiếp tới nay, chúng ta đă
dưỡng thành một thói quen, “ta là ta, quư vị là quư
vị, người khác là người khác”, làm sao là một
Thể cho được? Há có lẽ ấy? Dẫu thế
nào cũng chẳng thể thừa nhận, chúng ta ngỡ đó
là chân tướng sự thật, nhưng Phật, Bồ
Tát bảo chúng ta đă hoàn toàn sai lầm mất rồi! Đúng
là một Thể. Phải như thế nào th́ mới có thể
chứng đắc? Đức Phật dạy: Quư vị
chẳng c̣n chấp trước nữa. Chẳng c̣n chấp
trước thân này là ta, thân kia là quư vị, thân nọ là của
người khác. Chẳng có sự chấp trước ấy,
thật sự đoạn chấp trước sẽ là ǵ?
Đó là phá Thân Kiến.
Chúng ta minh tâm kiến tánh, đạt
tới giai đoạn thứ nhất, đă có thành
quả, chẳng c̣n nhận biết cái thân này là chính ḿnh,
thân là ǵ? Thân là cái của ta có (ngă sở hữu), quyết
định chẳng phải là chính ḿnh. Giống như
quần áo, quần áo là cái ta có, chẳng phải là chính ḿnh,
chúng ta khẳng định điều này. Tiến hơn bước
nữa, Phật mong chúng ta hăy khẳng định, thân chẳng
phải là chính ḿnh, thân là cái ta có. Thân này là cái ta có, c̣n thân của
người khác th́ sao? Cũng là cái ta có. Cây cối, hoa,
cỏ là cái ta có; núi, sông, đại địa cũng là cái
ta có. Đó là cái ta có, chẳng phải là ta. Có thể
khẳng định và nhận thức như vậy th́ mới
có thể chứng quả A La Hán, Phật pháp nói người
ấy đă chứng đắc Chánh Giác. Tiểu Thừa trong
Tam Thừa đắc đạo có cách nh́n đối
với vũ trụ và nhân sinh khác chúng ta, Bồ Tát càng cao hơn
họ. Bồ Tát không chỉ chẳng chấp trước,
mà phân biệt cũng chẳng có. Do vậy, Tiểu
Thừa A La Hán đắc tâm thanh tịnh. Chỉ cần chấp
trước thân này là ta, thân kia là của quư vị, thân nọ
là của người khác, tâm thanh tịnh của chúng ta chẳng
thể khôi phục! Trong kinh đă dạy chúng ta tiêu chuẩn
tu hành là “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác”, chúng ta chẳng đạt được
tâm thanh tịnh tức là tu hành chẳng có công phu, chẳng được
thọ dụng. Tu hành chẳng có công phu, chẳng được
thọ dụng, phiền phức ở chỗ nào? Phiền
phức là đời đời kiếp kiếp vẫn phải
tiếp tục luân hồi. Thật sự đạt đến
cảnh giới A La Hán, biết thân chẳng phải là ta, đoạn
hết Kiến Tư phiền năo, vượt thoát lục
đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi chẳng
thấy nữa, giống như nằm mộng. Tỉnh mộng,
chẳng thấy lục đạo luân hồi nữa! Sau
khi chẳng thấy, cảnh giới đó là cảnh giới
A La Hán, bốn thánh pháp giới xuất hiện. Bốn
thánh pháp giới vẫn chưa phải là thật, vẫn là
cảnh mộng, v́ họ có Trần Sa phiền năo, có Vô Minh
phiền năo, ắt phải đoạn Trần Sa phiền
năo. Trần Sa phiền năo là ǵ? Phân biệt. Vô lượng
vô biên phân biệt ví như bụi cát, vọng niệm phân
biệt nhiều như bụi cát, [nên gọi là Trần Sa
phiền năo]. Buông phân biệt xuống, chẳng c̣n phân
biệt nữa, phân biệt chẳng có ǵ tốt đẹp!
V́ sao? Nó là hư vọng, chẳng thật! Kinh dạy: “Phàm những ǵ có tướng đều
là hư vọng”, “hết
thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng
thể được”, kinh Đại Bát Nhă dạy như
thế. Như vậy th́ mới có thể chứng
đắc cảnh giới Chánh Đẳng Chánh Giác của
Bồ Tát, tức là “b́nh
đẳng” trong tựa đề kinh, tâm b́nh đẳng hiện tiền, trong hết
thảy cảnh giới, quư vị chẳng c̣n phân biệt
nữa! Phật và chúng sanh b́nh đẳng, kinh Đại
Thừa thường nói “sanh, Phật
b́nh đẳng”, [nghĩa là] chúng sanh và Phật b́nh
đẳng. Tánh - tướng như nhau, Pháp Tánh và Pháp
Tướng là một, chẳng hai. Pháp Tánh có thể sanh, có
thể hiện, Pháp Tướng là cái được sanh, cái
được hiện, chúng là một, chẳng hai! Lại
cao hơn một bậc, không chỉ phân biệt, chấp
trước chẳng c̣n, mà khởi tâm động niệm
cũng chẳng có. Chẳng động tâm, không động
niệm, trở về tự tánh, đó gọi là thành Phật, là giác, đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh, đấy là Phật. Thanh
Văn, Duyên Giác, và Phật được gọi chung là Tam
Thừa. Tam Thừa đắc đạo có quan hệ
mật thiết với Pháp Tánh, với Thật
Tướng. A La Hán chứng đắc ít phần, Bồ
Tát chứng đắc nhiều phần, Phật chứng
đắc viên măn.
Kế đó, “Chỉ Quán nhất viết” (sách Chỉ Quán cuốn
một nói), đây là bộ Ma Ha Chỉ Quán của ngài Thiên Thai,
trong quyển thứ nhất có nói: “Pháp Tánh danh vi Thật Tướng, thượng phi Nhị
Thừa cảnh giới, hà huống phàm phu” (Pháp Tánh có tên
là Thật Tướng, c̣n chẳng phải là cảnh giới
của Nhị Thừa, huống hồ phàm phu), nói nghiêm ngặt
hơn bộ Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường. Pháp
Hoa Sớ nói theo nghĩa rộng, sách Chỉ Quán giảng
theo nghĩa hẹp, chỉ chấp nhận sự chứng
đắc của Như Lai mới là Pháp Tánh, [sự chứng
đắc của] A La Hán và Bồ Tát đều chẳng kể
tới, nhất định là đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh. Do trong Tam Thừa nói A La Hán là tiểu
ngộ, nên gọi Tiểu Thừa; Bồ Tát là đại
ngộ, xưng là Đại Thừa, nhưng chưa
triệt ngộ. Triệt ngộ mới thành Phật,
mới minh tâm kiến tánh. Nói thông thường, các vị A
La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát đều chưa
kiến tánh, các Ngài chỉ là tiếp cận, từng bước
tiến gần bờ mé. Hai cách nói này đều hợp lư,
chúng ta hiểu rơ là được rồi. Minh tâm kiến tánh,
kiến tánh thành Phật, Tiểu Thừa và Đại
Thừa c̣n chưa làm được, huống ǵ phàm phu?
“Hoa
Nghiêm Tông vị Chân Như hữu bất biến dữ tùy
duyên nhị nghĩa” (Tông Hoa Nghiêm bảo Chân Như có hai
nghĩa là bất biến và tùy duyên), Chân Như là Pháp Tánh, Chân
Như là Thật Tướng, quả thật là có hai ư nghĩa
bất biến và tùy duyên. “Dĩ
tùy duyên nghĩa, biến tạo nhất thiết chư
pháp” (do nghĩa tùy duyên, tạo khắp hết thảy các
pháp), tùy duyên mới có thể tạo khắp hết
thảy các pháp. “Cố xưng Chân
Như vi Pháp Tánh” (v́ thế, gọi Chân Như là Pháp Tánh),
đó là tùy duyên. Giống như hoàng kim có thể thuận
theo ư nghĩ của chúng ta, chúng ta chế nó thành đủ mọi
món trang sức, thuận theo ư nghĩ của con
người, nó tùy duyên, nó có biến đổi hay không? Nó bất
biến! Bất luận quư vị tạo thành món ǵ, bản
chất của nó vẫn là vàng, bất biến mà tùy duyên,
tùy duyên nhưng vẫn bất biến; do vậy, nó là
thật. Tướng th́ sao? Tướng là giả, v́ tướng
có thể biến đổi bất cứ lúc nào. Chúng ta thích
h́nh dạng nào, bèn có thể chế lại [món đồ theo
h́nh dạng mới ấy]. V́ vậy, gọi Chân Như là Pháp
Tánh. “Hựu dĩ bất
biến cố, tuy tùy duyên biến tạo nhiễm tịnh,
hữu t́nh dữ vô t́nh chủng chủng vạn pháp, nhi
Chân Như bất cải, bất biến” (Lại do bất
biến nên tùy duyên tạo khắp nhiễm và tịnh,
hữu t́nh và vô t́nh, muôn loại pháp, nhưng Chân Như chẳng
đổi, chẳng biến). Giống như chúng tôi
vừa dùng vàng làm tỷ dụ, vàng là Pháp Tánh, là Chân Như,
chế nó thành nhẫn, hay thành ṿng đeo cổ, thành ṿng đeo
tay, cho đến làm thành cái đĩa, hay chế thành chén trà,
bất luận làm thành vật ǵ, vàng vẫn chẳng thay
đổi, cho nên nó có thể tùy duyên. Tùy duyên, nói thật ra
là tùy cái duyên nào? Tùy thuận ư niệm của chúng sanh, mà cũng
là tùy thuận vọng tưởng của chúng sanh, khởi
vô lượng vô biên biến hóa. Tuy khởi biến hóa, nhưng
bản chất của nó bất biến, phải hiểu đạo
lư này! Quư vị thấy trên thế giới này có bao nhiêu động
vật, con người là một loại động vật,
thực vật lại có bao nhiêu loài, khoáng vật lại có
bao nhiêu thứ? Chẳng thể kể xiết! Đấy
là Chân Như tùy duyên, nhưng Thể của Chân Như bất
biến. Thể của Chân Như là ǵ? Trong phần trước
đă nói rất nhiều! Thật Tướng, pháp
giới, Niết Bàn, Thật Tế, chỉ nêu ra mấy
danh từ ấy. Trong kinh Phật có hơn mấy chục
loại danh từ, đều nhằm nói về cùng một
chuyện. Trong phần trước, tôi đă thưa bày cùng
quư vị v́ sao Thích Ca Mâu Ni Phật đối với
chuyện này bèn nói ra lắm danh tướng như thế?
Nói nhiều danh từ thuật ngữ như vậy
nhằm dụng ư dạy chúng ta chớ nên chấp
trước tướng danh tự. Danh là giả danh, quư
vị hiểu ư nghĩa của nó là được
rồi, nói như thế nào đều được!
Chúng là giả danh, nhằm giúp chúng ta ĺa tướng danh
tự, chẳng chấp trước tướng danh
tự, như vậy là đúng. Pháp Tánh chẳng có lúc nào
không tồn tại, không chỗ nào chẳng tồn tại.
Nó là bản thể của hết thảy vạn pháp,
chẳng phải là hiện tượng tinh thần, mà cũng
chẳng phải hiện tượng vật chất. Tuy
tồn tại, ở ngay trước mặt chúng ta,
nhưng mắt chúng ta chẳng nh́n thấy, tai cũng
chẳng nghe thấy, sáu căn chẳng tiếp xúc tới.
Nó thật sự có, nhưng sáu căn đều chẳng
tiếp xúc đến, nên gọi là Không.
Rất
nhiều đồng học niệm Bát Nhă Tâm Kinh thuộc làu,
kinh đă dạy rơ ràng: “Sắc
tức là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”. Sắc và Không là một, chẳng hai.
Sắc - Không bất nhị. Chúng ta thấy rất khó
hiểu, [đức Phật] nói những câu chân thật, đây
là nói về mối quan hệ giữa Pháp Tánh và vật
chất. Pháp Tánh và tinh thần có quan hệ ra sao? Phần
sau Tâm Kinh lại nói: “Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, cũng giống như thế”.
Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần. Mối
quan hệ giữa tinh thần và tự tánh giống hệt
như mối quan hệ giữa vật chất và tự tánh,
cho thấy vật chất và tinh thần đều do Pháp Tánh
biến hiện. Pháp Tánh biến hiện thành vật
chất, biến hiện thành tinh thần, sáu căn của
chúng ta có thể tiếp xúc. Tiếp xúc được th́ quư
vị phải biết: [Cái mà ta] tiếp xúc được
chính là Pháp Tướng, c̣n Pháp Tánh th́ sao? Pháp Tánh chẳng ĺa
khỏi Pháp Tướng. Giống như vàng làm thành đồ
trang sức, ta đem vàng làm thành một cái xuyến, vàng ở
chỗ nào? Quư vị cầm lấy cái xuyến là [cầm được]
vàng. Quư vị chấp trước cái xuyến, cái xuyến
là Pháp Tướng, Thể của nó, tức bản chất
của nó là Pháp Tánh. V́ lẽ đó, thấy tướng là thấy
tánh. V́ sao chúng ta thấy tướng mà chẳng thấy tánh?
Chúng ta thấy tướng bèn chấp tướng, chấp
vào tướng mất rồi. Tánh ở ngay trước
mặt mà mê, chẳng thấy tánh. Tướng có, tánh không, “Sắc tức là Không, Không
tức là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng
lại như vậy”. Chúng ta làm thế nào để
thấy cái ṿng bằng vàng là Không th́ quư vị kiến tánh, phải
có công phu ấy. Kẻ b́nh phàm chẳng thấy điều
này, kẻ b́nh phàm chấp trước điều ấy là
thật. [Chấp trước] “nó đúng là một cái xuyến”,
chúng ta chẳng thấy nó là Không. Ai có thể thấy? Pháp
Thân Bồ Tát thấy. Thưa cùng chư vị, A La Hán vẫn
chưa thấy, A La Hán biết, nhưng chẳng thấy; Bồ
Tát cũng biết, nhưng vẫn chưa thấy; Pháp Thân Bồ
Tát thấy được, “bản
thể của nó chính là Không, trọn chẳng thể được”,
đúng như kinh Bát Nhă đă nói: “Phàm những ǵ có tướng, đều là hư
vọng”, Pháp Thân Bồ Tát thật sự thấy!
Các nhà Lượng Tử Lực
Học hiện thời đă thấy, họ thấy
hiện tượng vật chất và hiện tượng
tinh thần là ǵ? Là huyễn tướng do vô lượng
vô số ư niệm tích lũy liên tục sanh ra! Tất
cả hiện tượng vật chất và hiện tượng
tinh thần đều là như vậy, chẳng thật! V́
thế, kinh Bát Nhă đă dạy: “Nhược
kiến chư tướng phi tướng, tức kiến
Như Lai” (nếu thấy các tướng chẳng
phải là tướng, liền thấy Như Lai), thấy
Như Lai là kiến tánh. Quư vị thấy Pháp Tánh; từ Pháp
Tướng, quư vị thấy được Pháp Tánh. Câu này
rất khó hiểu, chẳng phải là kiến thức thông
thường, chẳng thuộc vào kinh nghiệm của chúng
ta. Chẳng hạn như thứ chúng tôi đang cầm trên
tay là ǵ? Đây là một quyển sách, chẳng sai, chúng ta đă
thấy tướng. Người kiến tánh sẽ nói ǵ? Đó
chẳng phải một quyển sách, chẳng có sách, mà là mấy
chục trang giấy xếp lại. Họ thấy ǵ? Mấy
chục trang giấy, chẳng phải một quyển sách,
mấy chục trang giấy đó thôi! Thấy thứ này là
mấy chục trang giấy xếp cùng một chỗ, cao
minh hơn cách nh́n “đây là một quyển sách” nhiều lắm.
Quư vị hiểu rơ đạo lư này, chúng ta thấy một
người là một thân thể; nhưng người khác
sẽ thấy người ấy chẳng phải là thân
thể, mà là một đống lớn gồm mấy
trăm triệu, mấy ngàn triệu, mấy vạn triệu
tế bào nguyên tử tụ tập cùng một chỗ! Người
ấy nói chẳng sai! Chúng ta thấy đây là căn nhà, nhưng
người xây dựng nhà nh́n nó sẽ chẳng thấy căn
nhà, mà thấy trong ấy có bao nhiêu xi-măng, có bao nhiêu cốt
thép, có bao nhiêu viên gạch, bao nhiêu miếng ngói, sắp xếp
như thế nào, há có căn nhà? Đức Phật thấy
khác với chúng ta. Các nhà khoa học nh́n một căn nhà, sẽ
thấy căn nhà do cả đống hạt cơ bản
hợp thành, họ chỉ thấy hạt cơ bản. Các
nhà Lượng Tử Lực Học càng sắc sảo hơn,
hạt cơ bản vẫn c̣n quá to, vẫn c̣n có thể chia
tách, chia đến mức nhỏ nhất chẳng c̣n chia được
nữa, bèn gọi là “lượng tử”. Căn nhà này là ǵ?
Là lượng tử chất chứa, chẳng thấy cái
nhà, đó gọi là “từ tướng mà thấy tánh”.
Quư vị chấp tướng, tướng
bất b́nh đẳng. Quư vị thấy tánh, tánh là b́nh
đẳng. Nói theo cách hiện thời, bất luận
động vật, thực vật, khoáng vật, núi, sông, đại
địa, toàn là do lượng tử hợp thành. V́ sao có
những thứ kết hợp thành chất rắn? Trong hiện
tượng vật chất; cũng có những thứ kết
hợp thành chất lỏng lan chảy giống như nước
tuôn chảy. Có những thứ biến thành chất hơi,
không khí cũng do lượng tử kết hợp thành. Lượng
tử xuất hiện như thế nào? Do dao động sanh
ra, vô cùng yếu ớt, lại c̣n hết sức nhanh chóng,
nên kết hợp thành những thứ ấy. Tần suất
dao động khác nhau, tần suất chậm sẽ biến
thành chất rắn, tần suất nhanh hơn một chút
sẽ biến thành chất lỏng, mau hơn
nữa sẽ biến thành chất hơi, không khí. Do tần
suất khác nhau, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới đủ mọi thứ sai biệt. Trên thực
tế, tất cả hết thảy hiện tượng
đều có thể quy về lượng tử, thứ
cơ bản là lượng tử, có thể quy vào đó. Lượng
tử có thể quy vào năng lượng, v́ lượng tử
vẫn là vật chất, nên có thể quy vào năng
lượng. Điều này có thể giải thích lời đức
Phật đă dạy trong kinh: “Bất
biến tùy duyên, tùy duyên bất biến”, v́ tùy duyên th́ mới
có thể biến hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới.
V́ bất biến, nhưng tùy duyên,
nên biến thành nhiễm hay tịnh, hữu t́nh hay vô t́nh đủ
mọi muôn pháp, nhưng tánh chất của nó là vĩnh
hằng bất biến. Tánh là Pháp Tánh, pháp là đủ mọi
muôn pháp. Tánh của đủ mọi muôn pháp là một tánh,
cho nên đồng thể, chẳng sai biệt, có cùng một
tự tánh. Vạn sự vạn vật đều do một
tự tánh biến ra. Thế giới Cực Lạc là do tự
tánh biến. Thế giới Hoa Tạng do tự tánh
biến. Hai mươi tám tầng trời do tự tánh
biến. Ngạ quỷ, địa ngục A Tỳ cũng
do tự tánh biến. Quốc độ thanh tịnh trang
nghiêm do tự tánh biến. Xă hội động loạn, khắp
nơi có những vùng đất nẩy sanh tai nạn, cũng
là do tự tánh biến. Rời khỏi tự tánh th́ thứ
ǵ cũng chẳng có, đó gọi là “biết tổng tướng của các pháp”, A La
Hán hiểu được. V́ sao nó có thể thiên biến
vạn hóa nhiều dường ấy? Đó gọi là “biết biệt tướng
của pháp”. A La Hán chẳng biết biệt tướng
của các pháp, nhưng Bồ Tát biết, danh từ Phật
học gọi [sự thấy biết đó] là Đạo
Chủng Trí, vạn sự vạn vật được h́nh
thành do đạo lư nào. Chủng (種) là chủng loại, ngàn muôn phần sai
khác. V́ đạo lư nào mà có thể biến thành t́nh trạng
như vậy? Đối với loại trí huệ ấy A
La Hán chẳng biết, nhưng Bồ Tát biết, nên Bồ
Tát cao hơn A La Hán một bậc. A La Hán chỉ biết
tổng tướng, chẳng biết biệt tướng.
Bồ Tát biết tổng tướng, mà cũng biết biệt
tướng, nhưng chưa đạt đến rốt
ráo, chẳng triệt để. Đến lúc thành Phật
Như Lai mới là rốt ráo viên măn, gọi là chứng
đắc Nhất Thiết Chủng Trí.
Tiếp đó, sách nêu một tỷ
dụ, tỷ dụ này cũng thường được
nhắc tới trong kinh. Chúng ta vừa mới dùng vàng và các
món vật bằng vàng để làm tỷ dụ, đó là tỷ
dụ thường được kinh Phật và cổ đại
đức nói tới. Ở đây, dùng nước để
tỷ dụ, sánh ví nước như Pháp Tánh, sóng được
ví như Pháp Tướng. Nước chuyển động
bèn dậy sóng. Nước là tĩnh, sóng là động. Nước
có thể chiếu, giống như một tấm gương
có thể soi cảnh giới bên ngoài. Sóng chẳng thể
chiếu, sóng đă đánh mất tác dụng soi chiếu ấy.
V́ thế, sánh ví Pháp Tánh như nước, sánh ví Pháp
Tướng như sóng, “nhi
bất biến thất thủy chi tánh” (mà tánh của nước
chẳng biến đổi, bị mất đi), tánh của
nước chính là tánh ướt. “Pháp Tánh Chân Như, thuần thiện vô nhiễm”.
Thiện ở đây chẳng phải là thiện trong thiện
- ác, tịnh trong chữ “thuần
tịnh” chẳng là tịnh trong tịnh - nhiễm,
thuần thiện vô nhiễm là tịnh. “Duy dĩ duyên hữu nhiễm tịnh, nhi sở
biến chi pháp hữu nhiễm tịnh chi biệt” (chỉ
v́ duyên có nhiễm hay tịnh, mà pháp được biến
bèn có nhiễm hay tịnh sai khác). Duyên có nhiễm hay
tịnh, nhưng tánh chẳng có nhiễm hay tịnh. Trong lục
đạo, duyên có thiện hay ác, tánh chẳng có thiện hay
ác, chớ nên không biết điều này. Trong tự tánh, hễ
chư vị nắm vững một nguyên tắc bèn dễ
dàng hiểu rơ. Trong tự tánh chẳng có đối lập,
v́ nó là một Thể, nó là viên dung, chẳng có đối
lập. Quư vị thấy chân và vọng, chẳng phải là
đă đối lập rồi ư? Trong tự tánh chẳng
có chân hay vọng, trong tự tánh chẳng có nhiễm hay tịnh,
trong tự tánh chẳng có thiện hay ác, trong tự tánh chẳng
có sanh hay diệt. Sanh diệt là tương đối, trong
tự tánh chẳng t́m được tương
đối. Trong tự tánh chẳng có xa hay gần, xa hay gần
là một cặp [đối lập]. Chẳng có xa hay gần,
bèn chẳng có không gian. Trong tự tánh chẳng có
trước, sau. Chẳng có trước sau, bèn chẳng có
thời gian. Do vậy, trong tự tánh chẳng t́m
được tương đối. Hễ có
tương đối, sẽ chẳng phải là tự tánh,
mà là Pháp Tướng. Trong Pháp Tướng có tương
đối, trong Pháp Tánh chẳng có. Chúng ta làm như thế
nào để chẳng t́m được tương đối
trong Pháp Tướng th́ quư vị kiến tánh. Phải làm như
thế nào mới có thể thoát ĺa tương đối?
Tương đối là đối lập. [Để đạt
đến] chẳng có đối lập th́ đức Phật
đă dạy chúng ta: Hăy buông khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước xuống, bèn chẳng có đối
lập nữa. “Chẳng có” tức là đă kiến tánh. Tánh
ở chỗ nào? Tất cả Pháp Tướng chẳng có
một pháp nào chẳng phải là [Pháp Tánh], pháp nào cũng đều
là, pháp nào cũng đều b́nh đẳng, pháp nào cũng đều
viên dung.
Phàm phu thành Phật, nói theo lư
luận là ngay trong một sát-na, chúng ta thật sự có
năng lực ấy, buông hết khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước xuống, phàm phu bèn thành Phật.
Có người như vậy hay không? Có! Thuở Thích Ca Mâu
Ni Phật tại thế, lúc Ngài ba mươi tuổi, Ngài ở
dưới cội Bồ Đề buông hết những ǵ
đă học trong mười hai năm xuống, cũng có
nghĩa là khởi tâm động niệm, phân biệt,
chấp trước đều cùng buông xuống, bèn thành Phật.
Ngài biểu diễn cho chúng ta thấy thành Phật đơn
giản như thế đó! Hễ buông xuống bèn kiến
tánh, hễ kiến tánh bèn “không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng
thể”. V́ sao? V́ quư vị đă trọn đủ “có
thể sanh, có thể hiện, có thể biến”, vạn sự
vạn vật là sở sanh, sở hiện, sở biến
(cái được sanh, cái được hiện, cái được
biến). Đă nắm bắt được cội nguồn,
vạn sự vạn vật trong khắp pháp giới hư
không giới quư vị đều hiểu rơ toàn bộ, chúng
do tự tánh biến, chẳng đến từ bên ngoài. Ở
Trung Quốc cũng có một tấm gương rơ rệt.
Đời Đường, Thiền Tông Lục Tổ Huệ
Năng đại sư giống như Thích Ca Mâu Ni Phật,
đă biểu diễn cho chúng ta, tức là Ngài ngay lập tức
buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước xuống, đó gọi là “đốn xả”, chẳng
phải là xả dần dần từng thứ một, mà là
buông xuống ngay một lúc, nên gọi là “đốn xả”.
Đốn xả nên đốn ngộ và đốn
chứng, lập tức chứng đắc. V́ thế, ḥa
thượng Ngũ Tổ Nhẫn lập tức truyền
y bát cho Ngài. Khi đó, Huệ Năng đại
sư hai mươi bốn tuổi, thành Phật! Người
nào chứng minh cho Ngài? Ḥa Thượng Ngũ Tổ
Nhẫn đă chứng minh Lục Tổ đă thành Phật.
Thành Phật là buông xuống, triệt để buông
xuống, hiểu rơ triệt để vũ trụ, nhân
sinh, vạn sự, vạn vật. Trong lịch sử Trung
Quốc, có không ít những nhân vật như vậy. Từ
hai ngàn năm qua, tối thiểu có hơn hai ngàn người
đạt tới cảnh giới này. Trong tu học, buông
xuống nhanh chóng nhất th́ có thể nói Huệ Năng
đại sư là bậc nhất, người khác buông xuống
cũng phải mất một khoảng thời gian,
một hai năm, hoặc đôi ba năm, hoặc dăm sáu
năm, mười mấy năm, những trường hợp
như thế rất nhiều. Nhanh chóng như Huệ Năng
đại sư có lẽ chỉ có ḿnh Ngài, chẳng t́m
được người thứ hai. Có thể so sánh với
Ngài, theo kinh điển ghi chép, Thích Ca Mâu Ni Phật buông xuống
rất nhanh chóng.
V́
sao chúng ta không buông xuống được? Chúng ta coi những
huyễn tướng và giả tướng đều là thật,
chẳng biết chúng là giả. V́ thế, dấy lên tham luyến
đối với chúng, sanh khởi tâm t́nh yêu mến, đó
là chuyện phiền phức! Dẫu đọc kinh giáo đă
nhiều, đức Phật đă vô số lần nhắc
nhở chúng ta, chúng ta biết những thứ ấy (huyễn
tướng, giả tướng) là giả, nhưng vẫn
y như cũ chẳng thể buông xuống được!
T́nh chấp quá sâu, tập khí phiền năo quá nặng, nhưng
cần phải biết: Không buông xuống, quyết
định sẽ chẳng thể thành công. Không buông
xuống, nhất định phải luân hồi trong lục
đạo. Nghĩ đến chuyện này, chúng ta bèn chẳng
dám không buông xuống. V́ sao? Không buông xuống sẽ rất
khổ, quư vị nói xem: Làm người khổ quá đi thôi!
Đời này làm người, đời sau có thể làm
thân người nữa hay không? Chẳng dám chắc! V́ sao? Đức
Phật đă nói rơ ràng, nếu muốn đời sau
được làm thân người, chúng ta tu Thập
Thiện Nghiệp Đạo tối thiểu phải
đạt đến trung phẩm. Cũng tức là chúng ta
tu Thập Thiện Nghiệp Đạo giống như được
thầy chấm điểm trong nhà trường, tối
thiểu chúng ta phải đạt được bảy mươi,
tám mươi điểm, đời sau mới ḥng
được mang thân người! Nếu quư vị có
thể đạt được từ chín mươi
điểm trở lên, hoặc đạt được
một trăm điểm, quư vị đạt tiêu
chuẩn sanh vào cơi trời hoặc cơi người trong
đời sau. Năm mươi điểm khó đảm
bảo, chẳng nhất định có thể
được làm thân người. Nói chung, được
bảy tám mươi điểm
mới kể là chắc chắn đời sau được
làm thân người. Chính chúng ta phải suy nghĩ, quư
vị đọc kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
mấy lượt, đối chiếu, tự ḿnh chấm
điểm bản thân, xem có thể đạt đến bảy,
tám mươi điểm hay không? Nếu cảm thấy
chẳng được th́ sẽ bị phiền phức to
lớn. Chớ nên chẳng biết đạo lư và chân
tướng sự thật này.
Chúng ta lại xem tiếp: “Hựu
Hội Sớ viết: Bồ Tát hữu nhị chủng
trí, năng vi nhất thiết tu hành bổn” (Lại nữa,
sách Hội Sớ giảng: “Bồ Tát có hai thứ trí có thể
làm căn bản cho hết thảy các sự tu hành”). Tu hành chẳng thể không có trí huệ.
Không có trí huệ là “tu mù,
luyện đui”. Rất nhiều kẻ ngỡ ḿnh đang
tu hành, trên thực tế là đang gây tạo oan nghiệt,
đang tạo tác bất thiện, kẻ ấy thiếu trí
huệ, tự cho là đang tu hành, chuyện như vậy rất
nhiều. V́ vậy, thiếu trí huệ là không
được. Hai thứ trí huệ ấy làm căn bản
cho hết thảy các sự tu hành. “Hà giả vi nhị? Nhất vị Như Lư Trí,
năng chiếu chư pháp bổn tánh, bất nhất,
bất dị, bất sanh, bất diệt, thị danh thông
chư pháp tánh” (Những ǵ là hai? Một là Như Lư Trí,
có thể chiếu bổn tánh của các pháp, chẳng một,
chẳng khác, chẳng sanh, chẳng diệt, nên gọi là
“thông đạt tánh của các pháp”). Kinh nói đến điều
này: Quư vị có Như Lư Trí, có trí huệ như thế, trí huệ
ấy là ǵ? Có thể chiếu bổn tánh của các pháp. Ngài
dùng chữ “chiếu kiến”,
chẳng nói “thấy (kiến) bổn tánh của các pháp”. Ngài
nói “có thể chiếu”, v́ sao không dùng Kiến, mà dùng Chiếu?
Trong Kiến có phân biệt, có chấp trước, có t́nh
thức trong ấy. Chiếu kiến: Chúng ta cầm một
tấm gương, dùng gương để soi một người,
gương sẽ chiếu rơ ràng, rành rẽ, nó chẳng có
phân biệt, chẳng có chấp
trước, chẳng có thích hay không thích, đó là Chiếu
Kiến. Trong kinh dùng chữ này, quư vị nên hiểu: Mắt
chúng ta thấy sắc bên ngoài, mắt phải giống như
một tấm gương, chớ nên có phân biệt, chấp
trước, ưa thích, hay chẳng ưa thích. Quư vị vừa
dấy niệm bèn là t́nh chấp, sai mất rồi, mê mất
rồi! Dùng Chiếu Kiến, giống như một tấm
gương; mắt ta giống như gương, [nh́n sự
vật] rơ ràng, rành rẽ, nhưng trong [cái thấy ấy]
chẳng có yêu ghét, chẳng có chán nhàm, mà cũng chẳng có ưa
thích, hoàn toàn là tâm b́nh đẳng. Đó là Chiếu Kiến.
Chiếu Kiến là trí huệ. Có phân biệt, có chấp
trước, có yêu ghét, bèn là T́nh Kiến, chẳng phải là
Chiếu Kiến. Hễ trong ấy có t́nh thức th́ t́nh
thức là mê!
Câu kế tiếp là “đạt chúng sanh tướng”,
đó là Như Lượng Trí. “Nhị
vị Như Lượng Trí, năng chiếu chúng sanh thù
tướng” (hai là Như Lượng Trí, có thể chiếu
tướng khác biệt của chúng sanh), “thù” (殊) là
bất đồng, [“thù
tướng”] là các hiện tượng thiên sai vạn
biệt. “Mê, ngộ, phàm, thánh các
dị” (mê, ngộ, phàm, thánh, mỗi mỗi khác biệt),
quư vị đều hiểu rơ ràng, minh bạch. “Thị danh đạt chúng sanh tướng”
(đó gọi là “đạt chúng sanh tướng”). Câu kế
tiếp nói rất hay: “Cố ‘thông
chư pháp tánh’ thị Căn Bản Trí, ‘đạt chúng
sanh tướng’ thị Sai Biệt Trí” (v́ thế, “thông hiểu
tánh của các Pháp” là Căn Bản Trí, “thấu đạt
chúng sanh tướng” là Sai Biệt Trí). Căn Bản Trí c̣n
gọi là Thật Trí, thực tại; Sai Biệt Trí cũng
gọi là Quyền Trí, tức phương tiện quyền
xảo. Khi hóa độ chúng sanh, ở chung với chúng sanh,
phải dùng Quyền Trí. Quyền Trí thiên biến vạn hóa;
Căn Bản Trí là như như bất động, ở
trong động mà chẳng động, nhưng trong không động
lại có động. Do vậy, để biểu thị
pháp, Phật pháp thường dùng pháp luân để biểu
thị pháp, dùng luân, luân là ǵ? Viên, tức là h́nh tṛn được
nói trong H́nh Học hiện thời. Đức Phật dùng điều
này để biểu thị pháp. Chỉ có Viên th́ mới có
thể biểu thị trong động mà chẳng động.
Viên là nói tới chu vi của nó, chúng ta thấy tấm gương
này, cũng là một h́nh tṛn, chu vi h́nh tṛn là động. Vành
bánh xe là động, nhưng tâm h́nh tṛn ấy (trục bánh
xe) chẳng động, quư vị thấy “trong động
lại chẳng động”. H́nh tṛn có tâm hay không? Đương
nhiên là có tâm. Tâm h́nh tṛn ở đâu? T́m chẳng được!
Nó thật sự có tâm, nhưng chắc chắn quư vị chẳng
t́m được. Quư vị chấm một điểm ở
chỗ đó, cái chấm nh́n dưới kính lúp, do nó có diện
tích, nên chẳng phải là điểm, [như vậy là] t́m
điểm không được. Trong H́nh Học nói “một
điểm di động tạo thành đường, đường
di động tạo thành mặt”, chúng ta có thể thấy
được mặt, chứ đường cũng chẳng
nh́n thấy, như vậy th́ điểm càng chẳng nh́n
thấy[2]. Dấu
vết của điểm trọn chẳng t́m được.
Nói theo lư luận, nó nhất định có. Chẳng có nó th́
làm sao h́nh thành ṿng tṛn cho được? Do vậy, nhất
định phải có tâm ṿng tṛn. Đức Phật dùng điều
này để biểu thị Phật pháp, tâm đường
tṛn tượng trưng Pháp Tánh.
V́ thế, Pháp Tánh chẳng phải
là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh
thần, chẳng t́m Pháp Tánh được, nhưng Pháp Tánh
trọn khắp hết thảy các chỗ, hết thảy các
hiện tượng đều sanh từ Pháp Tánh. Quư
vị thấy h́nh tṛn, h́nh tṛn bé, h́nh tṛn lớn, dẫu lớn
cách mấy đều chẳng rời khỏi tâm h́nh tṛn.
Chẳng có cái tâm ấy, h́nh tṛn sẽ chẳng thể thành
lập, khẳng định là có cái tâm ấy. Quư vị thấy
cái tâm ấy có thể sanh, có thể hiện, có thể sanh ra
đường tṛn ấy, có thể hiện h́nh tṛn. Nó có
thể hiện, cho nên bất đắc dĩ dùng chữ
Không để tượng trưng cho nó. Kinh Bát Nhă
thường nói: “Sắc
tức là Không”, Sắc là ǵ? Đường tṛn, Sắc
là đường tṛn. Không là ǵ? Không là tâm h́nh tṛn. Chúng là một
Thể, chẳng thể tách rời. Rời khỏi tâm đường
tṛn, lấy đâu ra tướng bánh xe? Tướng ấy
chẳng c̣n nữa! V́ thế, nhà Phật dùng điều này
để biểu thị pháp, gọi hết thảy các
pháp là “pháp luân”, pháp luân biểu thị ư nghĩa này. Chúng ta nh́n
thấy h́nh tṛn, bèn lập tức biết vũ trụ này chẳng
phải Không, chẳng phải Có, mà cũng Không, cũng Có.
Biết chân tướng sự thật, trí huệ đă mở
mang, biết bản thể của hết thảy các pháp chính
là Không, trọn chẳng thể được. Do lẽ đó,
hết thảy các pháp có thể thọ dụng, có thể
thưởng thức, nhưng chẳng thể chiếm hữu, v́ sao? Bản thể
của nó chính là Không, quư vị chẳng chiếm hữu
được! Không riêng ǵ bản thể của
hết thảy vạn pháp chính là Không, mà bản thể của
cái thân chúng ta cũng chính là Không, nên chúng ta mong chiếm hữu,
khống chế thân thể, sẽ chẳng làm được.
Nếu có thể khống chế và chiếm hữu thân
thể này, ta sẽ khiến cho nó năm nào cũng là mười
tám tuổi th́ tốt quá, sống đến một ngàn năm
vẫn là dáng vẻ mười tám, quư vị mới có
năng lực chiếm hữu, khống chế nó, nhưng
quư vị làm không được. V́ thế, đức Phật
dạy chúng ta có thể thọ dụng, có thể
thưởng thức, nhưng quyết định chớ
nên có ư niệm khống chế hoặc chiếm hữu. [Nếu
có ư niệm ấy], quư vị đă tạo nghiệp, hễ
tạo nghiệp bèn chắc chắn có khổ báo về sau.
Người và người, người và Phật, Bồ
Tát, mỗi người và hết thảy chúng sanh
đều có duyên phận; người hiểu rơ th́ phải
nắm vững những duyên phận ấy, biến các duyên
phận ấy thành pháp duyên, đừng nên biến thành t́nh
duyên, càng chớ nên biến thành ác duyên, đó là đúng.
Biến thành t́nh duyên sẽ phải trả nợ, biến
thành ác duyên sẽ oan oan tương báo, vô cùng đau khổ!
Biến thành pháp duyên sẽ tốt đẹp, tất cả
mọi người giác ngộ, có thể cùng nhau tu hành, cùng
nhau chứng quả, đồng tâm hiệp lực
độ chúng sanh mê hoặc, điên đảo, đó là đúng,
đấy là đi theo cùng một con đường với
Phật, Bồ Tát.
Nếu thật sự mong cho thế
giới này an định, ḥa b́nh, phương pháp rất
đơn giản, con người sanh vào thế gian này, đầu
tiên là phải hiểu lư, phải khai trí huệ, quư vị bèn
có thể thấy thấu suốt, có thể buông xuống. Sau
đấy, chúng ta sống vài chục năm trong thế
gian này, sống suốt mấy chục năm, theo đuổi
một nghề nghiệp, khéo lo toan, thực hiện sự
nghiệp ấy tốt đẹp, làm công việc ấy tốt
đẹp, hỗ trợ, giúp đỡ những người
làm nghề khác, xă hội này sẽ an tường, ḥa thuận.
Mọi người vâng giữ nghề nghiệp và chức
trách của chính ḿnh, đừng nên can thiệp nghề nghiệp
của kẻ khác, mỗi cá nhân đều thực hiện
tốt nghề nghiệp của chính ḿnh. Giống như một
bộ máy, bộ máy do rất nhiều linh kiện hợp
thành, mỗi linh kiện đều tốt đẹp th́ cỗ
máy ấy sẽ vận hành suông sẻ. Nghề nghiệp của
người xuất gia là ǵ? Dạy học, dạy học
Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy học,
chúng ta kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật
lưu lại sách giáo khóa, hăy nghiêm túc học tập,
giảng giải cho những đồng học hữu duyên
đến học tập, mọi người cùng nhau
học tập, thực hiện tốt đẹp nghề
nghiệp này. Nghề nghiệp này chủ yếu là
giảng luân lư, đạo đức, nhân quả, mỗi
ngành nghề trong xă hội đều phối hợp sẽ
tốt đẹp lắm, đó là chuyện tốt. Đó
là tiến hành giáo dục, giáo dục tôn giáo, đối với
nhà Phật mà nói, hai chữ “giáo dục” vô cùng thiết
thực. Giáo dục của Phật Đà xác thực là sự
giáo dục chủ yếu, giáo học trọng yếu, giáo
hóa đáng tôn sùng. Không chỉ có cống hiến đối
với nhân loại, mà đối với chúng sanh trong mười
pháp giới đều có cống hiến rất lớn, dạy
chúng ta chứng đắc Căn Bản Trí và Hậu Đắc
Trí. Sai Biệt Trí là Hậu Đắc Trí. Căn Bản Trí
là liễu giải chân tướng sự thật, đấy
là Căn Bản Trí. Hậu Đắc Trí là phương
tiện thiện xảo, ứng dụng Căn Bản Trí vào
cuộc sống hằng ngày, đó là Sai Biệt Trí. Chúng ta
học “thông đạt tánh tướng”
tới đây!
Bây giờ chúng ta lại xem tiếp,
đoạn thứ hai là “cúng Phật
độ sanh”, [tức là] cúng dường Phật,
phổ độ chúng sanh. Câu này cũng hết sức quan
trọng. Kinh văn:
(Kinh)
Cúng dường chư Phật. Khai đạo quần sanh.
(經) 供 養
諸 佛。開 導 群 生。
(Chánh kinh: Cúng dường chư Phật, khai
thị, giáo hóa chúng sanh).
Đối
với hai câu này, chúng ta thấy [cụ Niệm Tổ giảng]:
“Cúng dường hữu nhị”
(cúng dường có hai loại), thứ nhất là tài cúng
dường, thứ hai là pháp cúng dường. Chúng ta xem trước:
“Tài cúng dường, cúng
dường hương, hoa, ẩm thực đẳng tài
vật” (Tài cúng dường: Cúng dường hương,
hoa, thức ăn v.v… các món tài vật). [Chỉ nêu lên] ba thứ
này, chứ phạm vi của tài vật rất rộng. Nói đến
ba thứ ấy v́ ba thứ ấy bao hàm ư nghĩa rất
sâu. Hương biểu thị thông tin. Thông tin hiện thời
đă phát triển đến truyền h́nh vệ tinh và mạng
Internet. Vào thời cổ, truyền tin phải cậy vào hương.
Nếu quư vị có dịp đến Trung Quốc văn cảnh,
thăm Vạn Lư Trường Thành, quư vị sẽ hiểu
đốt hương nhằm ư nghĩa ǵ. Vạn Lư
Trường Thành là tuyến đường dài mấy ngàn
dặm, phía ngoài trường thành là Hung Nô. Thời cổ, người
Mông Cổ là dân tộc du mục, Trung Quốc là xứ nông
nghiệp, lấy nông nghiệp lập quốc, tức là lấy
trồng trọt làm chủ yếu. Những dân tộc du mục
thường xâm lược, cướp đoạt, nên chánh
quyền mới đắp trường thành để làm
công sự pḥng ngự. Khi họ tấn công th́ làm thế nào?
Làm cách nào để báo tin cho hoàng thượng để nhà
vua nhanh chóng phái binh đến cứu? Do vậy, quư vị
thấy trường thành, cứ cách mỗi khoảng lại
có phong hỏa đài (烽火台). Phong hỏa đài là ḷ hương, đó
là phong hỏa đài. Đốt ǵ? Đốt “lang yên” (狼煙), [tức là] đem phân chó sói đốt
cho bốc khói, khói ấy chẳng dễ bị gió thổi
tan. Khói phân sói là như vậy đó, chẳng bị thổi
tan mất. Thấy phong hỏa đài [bên kia] đốt khói
phân sói, phong hỏa đài bên này cũng đốt. Phong hỏa
đài từ Ngọc Môn Quan[3]
truyền đến Trường An, thời ấy thủ
đô ở Trường An. Chỉ cần khoảng mấy
giờ, ba bốn giờ liền truyền đến [kinh đô],
Hoàng Thượng lập tức biết biên thùy có địch
nhân xâm lược. Do vậy, nó nhằm để truyền
đạt tin tức.
Trong Phật pháp th́ sao? Quư vị thấy
lư hương giống như phong hỏa đài, chúng ta
thắp một nén nhang là ǵ? Báo tin cùng Phật, Bồ Tát, có
ư nghĩa này. Do vậy, đừng nên đốt hương
quá nhiều. Hương đốt quá nhiều sẽ là khói
đen mù mịt, không khí cũng bị ô nhiễm. Thắp một
nén hương thơm, đó là biểu thị pháp, biểu
thị tâm ư của chúng ta giao tiếp với Phật,
Bồ Tát, mang ư nghĩa này. Quư vị thấy đó, bảo
quư vị cúng dường thứ ấy, chúng ta thiện tâm
thiện ư cúng dường Phật, Bồ Tát, mang ư nghĩa
này. Hiện thời người đốt hương đông
đảo, mấy ai hiểu ư nghĩa này? Ư nghĩa ấy
khiến Phật, Bồ Tát hoan hỷ. Hiện thời, đốt
hương nhằm ư nghĩa ǵ? Bợ đỡ Phật,
Bồ Tát, cầu Phật, Bồ Tát phù hộ cho tôi
thăng quan phát tài. Nếu tôi phát tài to, tôi phát tài một trăm
vạn, sẽ đến cúng dường Ngài một
vạn! Đàm phán điều kiện, coi Phật, Bồ
Tát như tham quan ô lại, thắp hương như vậy
làm sao có phước cho được? Há có lẽ ấy?
Quư vị đă tính toán quá kỹ! Nếu Ngài phù hộ tôi được
một trăm vạn, tôi sẽ đến cúng
dường Ngài một vạn, thành ra thể thống ǵ! Ư
niệm ấy đă sai be bét, niệm niệm đều tạo
tội nghiệp, mà vẫn mong cầu Phật, Bồ Tát giúp
kẻ ấy tạo tội nghiệp, lẽ đâu có chuyện
như vậy? Trong phần trước, chúng tôi đă nói rất
rơ ràng, chức nghiệp của Phật, Bồ Tát là thầy
giáo, chỉ quan tâm dạy dỗ tốt đẹp, chuyện
ǵ khác đều chẳng màng tới! Thật vậy! Hành hạnh
của chính ḿnh cho tốt đẹp, chẳng quản ǵ khác,
đó là đúng. Do vậy, quư vị hăy thật sự
hiểu cúng dường Tam Bảo có ư nghĩa như thế
đó, ngàn vạn lần đừng nên tạo tội
nghiệp, tạo tội nghiệp là sai lầm quá đỗi.
Hương cúng dường [là như vậy đó].
Hoa cúng dường là ǵ? Hoa tượng
trưng cho nhân. Quư vị thấy thực vật nở hoa
trước, kết trái sau. Chúng ta thấy thực vật trổ
hoa tốt đẹp, bèn biết quả nhất định
tươi tốt. Nếu hoa nở chẳng tốt, sẽ
biết thâu hoạch bị trục trặc, quả chẳng
kết tốt đẹp. Hoa là như thế đó. Chúng ta
tu cái nhân tốt đẹp, đó là hoa. Hoa tượng trưng
cho tu nhân. Nếu cúng trái cây th́ trái cây tượng trưng
cho sự kết quả, chúng ta dùng thiện nhân thiện
quả để cúng dường Phật, biểu thị ư
nghĩa này. Chẳng phải là Phật muốn ngắm hoa ấy,
muốn ăn những quả ấy, chẳng có lẽ đó!
Bởi lẽ, trong Phật môn hết thảy đều là
giáo học. Cúng trước Phật một chén nước
th́ nước ấy là ǵ? Nước là tâm chúng ta, tâm chúng
ta phải trong sạch như nước, tâm chúng ta phải
b́nh đẳng, đó là như kinh đă nói “thanh tịnh, b́nh
đẳng”. Dùng nước để tượng trưng
cho tâm thanh tịnh, b́nh đẳng. Chẳng phải là Phật,
Bồ Tát muốn uống nước. [Nếu hiểu là cúng
nước cho các Ngài uống] th́ trật rồi, toàn là để
biểu thị pháp. Chúng ta hiểu rơ ư nghĩa này, hễ nh́n
thấy những vật cúng ấy, chúng ta bèn hiểu phải
làm theo cách nào, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác đều chớ nên có tà niệm, chớ nên có tà hạnh,
[những vật cúng ấy] đều nhằm dạy chúng
ta.
[Dâng cúng] thức ăn là báo ân, các
Ngài có ăn hay không? Các Ngài không ăn! Phật, Bồ Tát há ăn
những thứ ấy? V́ sao dùng thức ăn để cúng
dường? Thuở Phật, Bồ Tát tại thế, các
Ngài khất thực. Chúng ta tài cúng dường Phật,
Bồ Tát, tài cúng dường là một bát cơm. Có khi chẳng
phải là một bát, mà là một muỗng cơm, một chút
ít. V́ thế, đức Phật đi khất thực mỗi
nhà, xin bảy nhà mới có một bát cơm. Chẳng
phải là một nhà cho nhiều như thế, một nhà
chẳng có nhiều như thế. Thuở ấy, con người
sống rất kham khổ, chính ḿnh bớt ăn một chút
để cúng Phật, mang ư nghĩa này. Nay chúng ta chẳng
quên gốc, chẳng quên t́nh trạng cuộc sống của
thầy trong thuở ấy. Thầy khất thực, chúng
ta cúng dường một chút cơm, chủ yếu là cơm.
Nếu cúng dường thức ăn th́ ba món thức ăn
biểu thị điều ǵ? Tam đức lục vị,
tối đa là sáu món. Sáu món tượng trưng cho sáu vị,
chua, ngọt, đắng, cay, mặn, nhạt, bao gồm sáu
vị ấy, đă viên măn rồi. V́ thế, chớ nên cúng
quá nhiều. Cúng quá nhiều là thất lễ, tỏ lộ
sự bợ đỡ; cúng ít quá th́ chẳng cung kính. V́ thế,
tốt thiểu là ba món là đúng pháp, biểu thị tam
đức, sáu món tượng trưng lục vị, đó
là lễ tiết. Phật đối với chúng ta là pháp cúng
dường, chúng ta đối với Phật là tài cúng
dường. Phật lại chẳng cần tài, chỉ
cần một bát cơm. Mỗi ngày đi khất thực
là một bát cơm, cho nên cúng dường thức ăn. Những
tài vật khác, nói thật ra tùy thuộc vào chỗ [những
món ấy] hữu dụng cho sự hóa độ chúng sanh của
Phật [th́ dâng cúng], chứ chỗ nào chẳng hữu dụng
bèn chẳng cần đến. Đức Phật ngũ nhăn
viên minh, vào thời ấy, tức là từ ba ngàn năm
trước mà có thể thấy xă hội hiện tiền,
trong thời đại ấy Ngài có thể chẳng cần
đến tiền. Trong thời đại hiện tại,
chẳng có tiền sẽ không được. Quư vị ra
khỏi cửa ngồi xe hoặc ngồi thuyền chẳng
giống như thời cổ. Thời cổ, xe, thuyền
hễ gặp người xuất gia bèn chẳng lấy
tiền, họ biết cúng dường. Hiện thời chẳng
được, bây giờ mà không mua vé, họ chẳng cho
quư vị lên. Do vậy, hiện thời, nếu nhận lời
thỉnh cầu, phải cần đến tiền đi đường
và tiền tiêu dùng. Quư vị đến nơi nào đó, nếu
là chỗ chùa, miếu, am, đường th́ chẳng sao. Nếu
chẳng có, các cư sĩ tạm thời thuê chỗ để
thỉnh pháp sư giảng kinh, thường ngụ tại
khách sạn, đều phải tốn tiền. Đức
Phật nghĩ đủ mọi lẽ, nên sau đấy
cho quư vị cúng thêm tài vật. Phải nên nhớ, kinh thường
nói: “Trong hết thảy các
thứ cúng dường, pháp cúng dường bậc
nhất”. Nếu chẳng có pháp cúng dường, tài cúng
dường chỉ tu được một chút phước,
tức là phước báo nhân thiên, vẫn phải là [cúng dường
những vị] có đức hạnh và tu tŕ thật
sự, tốt nhất là những vị xuất gia chứng
quả, quư vị mới thật sự gieo phước. Nếu
chẳng phải là người thật sự tu hành, quư
vị đến cúng dường kẻ ấy, tức là đă
phạm lỗi, chớ nên không biết những hiện tượng
ấy.
Hiện thời, Phật pháp suy vi,
suy đến mức nào? Suy đến mức người
học Phật chúng ta chẳng đúng pháp. Cứu vớt Phật
pháp bằng cách nào? Hiện thời Phật pháp có nguy cơ,
phải dùng phương pháp ǵ để cứu vớt nguy
cơ cho Phật pháp? Hăy nghiêm túc học Phật. Nghiêm túc
học Phật th́ nhất định phải tŕ giới, phải
tu Định, phải khai trí huệ. Tu Định, có nhất
định phải tu Thiền Định hay không? Chẳng
nhất định! Quư vị phải biết tám vạn bốn
ngàn pháp môn được nói trong Đại Thừa Phật
pháp, môn nào cũng đều là Thiền Định. Nếu
pháp môn nào rời khỏi Giới - Định - Huệ, đó
chẳng phải là Phật pháp, phải biết điều
này! Phật pháp chân chánh là ǵ? Phật pháp chân chánh quyết định
nương theo Giới - Định - Huệ. Thứ nhất
là phải tŕ giới, chẳng tŕ giới là giả, chẳng
thật. Nếu không tŕ giới, ngay cả phước
cũng chẳng tu được, Định - Huệ càng
chẳng cần phải nói nữa! Đầu tiên là tŕ
giới. Tŕ giới thực hiện từ chỗ nào? Hiện
thời, tôi đặc biệt nhắc nhở các đồng
học: Hăy thực hiện từ Đệ Tử Quy, Đệ
Tử Quy là giới luật căn bản. Có thể làm được
Đệ Tử Quy, sẽ tu Cảm Ứng Thiên tốt đẹp,
quư vị có thể thực hiện Cảm Ứng Thiên. Hai
thứ ấy là căn cơ của Phật pháp, các đồng
học học Phật chớ nên không biết. Trong Phật
Tạng Kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật, [tôi nói] Phật Tạng
Kinh, chẳng phải là Đại Tạng Kinh, trong các bộ
kinh Phật có một quyển kinh chẳng lớn, phân
lượng chẳng nhiều lắm, tựa đề của
kinh là Phật Tạng Kinh. Trong kinh ấy, đức Phật
dạy chúng ta, Ngài nói: “Phật
tử”, tức là đệ tử của Phật, “chẳng học Tiểu Thừa
trước, sau đó học Đại Thừa, chẳng
phải là đệ tử Phật”. Đức Phật
nói rất nghiêm túc, quư vị học Phật mà chẳng học
Tiểu Thừa trước, sau đó học Đại
Thừa, đức Phật chẳng thừa nhận quư
vị là học tṛ của Ngài. Giống như đi học,
trước hết, quư vị phải học Tiểu Học,
rồi học Trung Học, rồi học Đại Học,
đó là đúng. Nếu quư vị nhảy lớp, chẳng
cần đến Tiểu Học mà học ngay vào Đại
Học, đức Phật chẳng thừa nhận quư
vị.
V́ thế, Phật pháp truyền
đến Trung Quốc, kinh điển Tiểu Thừa được
phiên dịch hết sức hoàn bị, kinh điển Đại
Thừa được tuyển chọn để phiên dịch.
V́ sao? Quá nhiều! Thuở ấy giao thông hết sức bất
tiện, chuyên chở [kinh điển] đến Trung
Quốc rất khó khăn. Do vậy, trong các kinh điển
Đại Thừa phải tuyển chọn, tuyển chọn
những bộ hay nhất, thích hợp cho người Trung
Quốc học tập, chọn lựa những bộ kinh ấy.
Có thể là [những kinh Đại Thừa vốn có tại
Ấn Độ] truyền đến Trung Quốc chưa được
một nửa, chúng ta chớ nên không biết [điều này].
Tiểu Thừa là cơ sở, cơ sở rất trọng
yếu, v́ thế, kinh Tiểu Thừa được phiên
dịch vô cùng hoàn bị. Hiện thời, Tứ A Hàm trong Đại
Tạng Kinh [bằng tiếng Hán] là kinh Tiểu Thừa. Đối
chiếu với Nam Truyền Đại Tạng Kinh bằng
tiếng Ba Lợi (Pali) của các nước theo [Phật giáo]
Nam Truyền như Thái Lan, Miến Điện, điển
tịch bằng tiếng Pali so với [các kinh Tiểu Thừa]
tiếng Hán đại khái chỉ nhiều hơn năm mươi
bộ. Hơn ba ngàn bộ kinh mà chỉ nhiều hơn
năm mươi bộ, chẳng đáng kể! Ta biết:
Tại Trung Quốc, kinh Tiểu Thừa được dịch
hoàn bị như thế. Do vậy, tại Trung Quốc có
hai tông phái Tiểu Thừa là Câu Xá Tông và Thành Thật Tông. Đời
Đường có [hai tông ấy], đều là trước
hết đặt vững cơ sở Tiểu Thừa rồi
mới có thể học Đại Thừa. Nhưng nói thật
ra, người Trung Hoa đối với văn hóa truyền
thống Trung Quốc lưu luyến rất sâu, từ giữa
đời Đường trở đi, chẳng học Tiểu
Thừa nữa. Có trái nghịch ư nghĩa của Thích Ca Mâu
Ni Phật hay không? Chẳng có! V́ những vị cao tăng
đại đức Trung Quốc nhận thấy Nho và Đạo
của Trung Quốc chẳng thua kém Tiểu Thừa.
Do vậy, ở Trung Quốc,
bất luận tại gia hay xuất gia đều chẳng
học Tiểu Thừa, mà học Nho, học Đạo.
Nho và Đạo là văn hóa bổn địa của Trung
Quốc, [dùng Nho và Đạo] thay thế Tiểu Thừa bèn
thành công. V́ thế, cho tới hiện tại, suốt một
ngàn bảy trăm năm qua đều làm như vậy.
Trong một ngàn bảy trăm năm ấy, trong mỗi tông
phái xuất hiện rất nhiều vị cao tăng,
tổ sư, đại đức, chứng tỏ [cách làm
ấy] hữu hiệu, dùng Nho và Đạo thay thế Tiểu
Thừa hữu hiệu. V́ vậy, tại Trung Quốc, Nho,
Thích, Đạo biến thành một nhà, trên h́nh thức bèn
có Nho, Thích, Đạo, nhưng xét theo thực chất, chẳng
có ǵ không học. Người học Phật đọc Tứ
Thư, Ngũ Kinh, cũng học Lăo Trang. Đạo trưởng
Đạo Giáo cũng học kinh Phật, cũng học sách
Nho. Người học Nho gia cũng học Đạo và
Phật. V́ vậy, trên thực tế th́ đă dung thông từ
mấy ngàn năm trước. Tại Thiếu Lâm Tự,
chúng tôi phát hiện một tấm bia, theo truyền thuyết,
tấm bia ấy được lập vào thời Đường
Túc Tông. Đường Túc Tông là con Đường Minh Hoàng,
tối thiểu là hơn một ngàn bốn trăm năm.
Bia ấy ghi điều ǵ? “Tam
giáo cửu lưu là một nhà”. Nay chúng ta nói là “đa
nguyên văn hóa”, nói tới tôn giáo đại đoàn kết.
Thời đại Đường Túc Tông đă lập bia ở
đó, cho thấy đúng là từ thuở ấy, người
ta đă bắt đầu quan niệm “tam giáo cửu lưu là một nhà”, tư tưởng
văn hóa đa nguyên phát triển khá sớm tại Trung Quốc,
đă được đề ra từ đời Đường,
chẳng phải là một học thuyết thời trang
trong hiện tại. Do vậy, pháp cúng dường là trọng
yếu.
Ba căn bản Nho - Thích - Đạo
rất trọng yếu, ba căn bản ấy là căn bản
của giới luật. Học tập nhất định
phải khởi sự từ Đệ Tử Quy, thứ
hai là Cảm Ứng Thiên, thứ ba là Thập Thiện Nghiệp
Đạo, có cơ sở ấy rồi mới học Phật
sẽ chẳng có vấn đề ǵ. Hàng xuất gia c̣n phải
học thêm một quyển nữa là Sa Di Luật Nghi, tức
là bốn căn bản. Sau khi đă vun quén vững bền
bốn căn bản ấy, bất luận học Nho,
học Đạo, hay học Phật, quyết định
có thành tựu. Học Nho thành thánh, thành hiền, học Đạo
thành thần, thành tiên, học Phật thành Phật, thành Bồ
Tát, thật sự có thể đạt được. Do vậy,
quư vị chẳng có căn bản, sẽ không
được. Chẳng có căn bản, học nhọc
nhằn cả đời, đến cuối cùng vẫn chẳng
có kết quả, quư vị hiểu vun bồi căn bản
trọng yếu lắm! Có bốn căn bản ấy, Phật
giáo sẽ hưng vượng. Chẳng có bốn căn bản
ấy, chắc chắn Phật giáo sẽ diệt vong, chúng
ta chớ nên không chú ư điều này. Nay chúng ta cúng
dường Tam Bảo, hăy dùng giáo dục vun bồi căn
bản, sau đó thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, đó
là cúng dường thật sự. Sự cúng dường này
sẽ khiến cho Phật pháp tồn tại lâu dài trong thế
gian, nối tiếp huệ mạng của Phật. Do sự
cúng dường chân thật này, đời này sẽ chẳng
uổng phí, đời này ta đă kiến công lập nghiệp
trong cơi nhân gian này, thật sự có giá trị. V́ thế, hiện
tại, chớ nên không biết điều này, hăy đúng pháp
tu hành, lợi ích chúng sanh. Thuở đức Thế Tôn tại
thế, Ngài đă suốt đời thị hiện, làm cho
chúng ta thấy, thân hành, ngôn giáo, những giới luật
trong kinh Phật Ngài đă thực hiện toàn bộ. Đối
với những ǵ đă nói trong kinh điển, chẳng có
câu nào Ngài chẳng làm được, đấy mới là
một vị thầy tốt đẹp!
V́ vậy, chúng ta phải tu cúng
dường. Tiếp đó, [sách Chú Giải] lại nói: “Hựu phân tam chủng” (lại
chia thành ba thứ [cúng dường]), nói đến ba loại
cúng dường, cúng dường lại chia ra ba loại.
Loại thứ nhất là “lợi
cúng dường”, trong phần trên, lợi cúng dường
được gọi là tài cúng
dường, “phụng
hương, hoa, ẩm thực đẳng dă” (dâng cúng
hương, hoa, thức ăn v.v…). Thứ hai là “kính cúng dường, tán thán cung
kính dă” (kính cúng dường tức là tán thán, cung kính),
loại cúng dường này nhằm giới thiệu Phật,
Bồ Tát với học tṛ.
Chẳng phải là thầy nhất
định cần chúng ta cung kính, chẳng phải vậy,
thầy chẳng nói lời ấy. Trong tâm chúng ta cung kính thầy,
tốt lắm, trên h́nh thức có cần thiết hay không? Trên
h́nh thức th́ không cần, h́nh thức là diễn tuồng
cho người chẳng biết, chẳng nhận biết
nh́n vào. Càng là người có địa vị, tín
đồ tại gia có địa vị, có học vấn,
cung kính người xuất gia dường ấy, người
khác trông thấy, [sẽ nghĩ] nhất định [vị
xuất gia ấy] có đạo đức, nhất
định là bậc lỗi lạc, ai nấy đều kéo
đến. Đây là nghĩa vụ phải nên trọn hết
của hàng học tṛ. Một vị thầy tốt đẹp
dường ấy, nhưng người ta chẳng nhận
biết, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ rất
đáng tiếc. Chúng ta biết kẻ hữu duyên mà chẳng
giới thiệu cho họ, đó là tội lỗi, chúng ta
có nghĩa vụ giới thiệu. Lúc thầy c̣n sống,
phải thường đến thăm thầy, đó là ǵ?
Làm cho đại chúng trong xă hội thấy, biết: Bậc
cao nhân ấy tuy im lặng, chẳng nghe tới tiếng tăm,
nhưng thật sự có tu tŕ, thật sự có đạo
đức, thật sự có học vấn, hăy giới thiệu
rộng răi. Thầy mất, tạo dựng từ đường
kỷ niệm thầy. Thầy để lại trước
tác, phải giới thiệu cho người đời sau
biết, chịu học theo thầy. Trong giảng đường,
pḥng học, chúng ta thờ ảnh thầy. Đó là ǵ? Giới
thiệu thầy cùng quảng đại quần chúng, khiến
cho mọi người nhận biết thầy. Thầy đă
khuất, quả thật vẫn c̣n trước tác lưu
truyền hậu thế, trong tương lai, người ta
trông thấy những thứ ấy, biết là của báu, là
trước tác của người thật sự có
đức hạnh, có học vấn, có tu hành, sẽ hết
sức coi trọng, nhất tâm nhất ư học tập vị
ấy, mục đích ở chỗ này.
Thuở đức Phật tại
thế, mọi người biết Ngài suốt đời
chẳng có trụ xứ, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng dựng
một đạo tràng hay một ngôi chùa miếu nào, chẳng
có! Cả đời chẳng làm! Khi viên tịch là ở vùng
quê, trong rừng. Sau khi đức Phật khuất bóng, quư
vị thấy người đời dựng đại hùng
bảo điện giống như hoàng cung, tạc tượng
Ngài thờ phụng trong ấy, đó là ǵ? Đều là khiến
cho nhân dân sanh ḷng kính ngưỡng đối với thầy.
Có thể kính ngưỡng vị thầy ấy, cũng sẽ
kính ngưỡng học tṛ, nẩy sanh tín tâm và hứng thú đối
với kinh điển di giáo của thầy, các đệ
tử đức Phật đến dạy bảo, họ
sẽ hoan hỷ tiếp nhận, dụng ư ở chỗ này.
Thoạt đầu, tạo lập tự viện am
đường thật sự là trường học. Tự
viện am đường lên lớp mỗi ngày, chúng ta
giảng kinh là lên lớp. Chẳng phải chỉ là một
vị thầy, mà những vị thầy thật sự thân
hành ngôn giáo, trong đại tự viện có mấy chục
vị, tiểu tự viện đại khái cũng có chừng
mười vị, cho nên các vị ấy dạy học chẳng
gián đoạn. Có lắm lúc, thuận theo yêu cầu của
học tṛ, đặc biệt mở khóa học cho họ. Điện
đường là pḥng học, mỗi điện đường
đều mở lớp, giống như trường học.
Nhưng học tṛ chẳng thể môn nào cũng học, không
thể được! Cổ nhân Trung Quốc dạy
học, nhấn mạnh “giáo
chi đạo, quư dĩ chuyên” (đạo giáo dục là cốt
yếu tinh chuyên), tuy câu này do tổ tiên đề ra, nhưng
Phật giáo tuân thủ, nên quư vị học kinh giáo chỉ
có thể học một môn, chẳng thể học rất
nhiều môn [cùng một lúc].
Giống như hiện thời chúng
ta buổi sáng trong hai tiếng đồng hồ học
kinh Vô Lượng Thọ ở đây, pḥng học sát vách
giảng kinh Kim Cang, quư vị nghe tôi giảng ở đây
xong, lại sang bên kia nghe kinh Kim Cang, có được hay không?
Không được! Quư vị chỉ có thể học
một thứ, chẳng thể đồng thời học
rất nhiều thứ. Học một thứ xong, học
xong một khoa mục, học hoàn tất một khoa mục
này rồi, quư vị có thể chọn một khoa mục khác,
lại có thể chọn một bộ kinh khác để
tu. Khoa mục này học chưa xong, chẳng thể học
khoa thứ hai! Thâm nhập một môn sẽ đắc Định.
Do Giới đắc Định, Giới là quy củ,
nghiêm ngặt tuân thủ quy củ, tâm người ấy thanh
tịnh bèn có thể đắc Định. Thời gian Định
đă lâu, lại nghe kinh hằng ngày, bất ngờ một
lúc nào đó, hoát nhiên đại ngộ, tức là khai
ngộ, đấy mới là mục tiêu học tập. Do vậy,
mục tiêu học tập của chúng ta, thứ nhất là đắc
tâm thanh tịnh, thứ hai là đắc định,
thứ ba là khai ngộ, đạt đến khai ngộ sẽ
là viên măn. Sau khi khai ngộ, bất luận là kinh giáo nào hoặc
giảng đường của người nào đều
hoan nghênh quư vị đến nghe. Trước khi khai ngộ,
không được! Quư vị chỉ có thể học
một môn, chẳng thể học hai môn. Đấy là Kính Cúng
Dường, hăy hiểu ư nghĩa chân thật của sự
cung kính.
Thứ
ba là “hành cúng dường, thọ
tŕ tu hành diệu pháp”. Thầy khảo hạch học tṛ,
tức là đối với thành tích của học tṛ, muốn
khảo sát trên phương diện này. Nói cách khác, quư vị
có làm được những ǵ quư vị đă học hay
chăng? Nếu chẳng thể áp dụng những thứ
đă học vào cuộc sống, công việc, xử sự,
đăi người, tiếp vật, tức là quư vị chưa
học được! Nói cách khác là thất bại, chẳng
thể thọ dụng. V́ thế, Phật pháp thật sự
là một học vấn, chẳng giả, học
đến mức dùng được, điều này được
coi trọng hơn bất cứ chuyện ǵ khác. Quư vị
học xong, chẳng đạt được lợi ích
chân thật th́ học để làm ǵ? Lợi ích chân thật
đầu tiên là thân tâm thanh tịnh,
phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng,
chắc chắn! Đấy là lợi ích mà bản thân quư
vị đạt được. Quả nhiên, tâm thanh
tịnh, trí huệ tăng trưởng, quư vị hăy nên suy
nghĩ: Quư vị tại gia học Phật, gia đ́nh quư
vị có hạnh phúc hay không? Quư vị có thể mang lại
hạnh phúc cho gia đ́nh, có trí huệ, có đức
hạnh, sự nghiệp kinh doanh của quư vị là sự
nghiệp Bồ Tát. Hiện thời, tại Trung Quốc có
mấy chỗ làm mẫu, [chẳng hạn như] công ty xí
nghiệp của ông Hồ Tiểu Lâm là Bồ Tát xí
nghiệp. Bà tổng giám đốc Lưu Khắc Thành ở
Thanh Đảo cũng áp dụng Đệ Tử Quy vào toàn
thể công ty, công nhân hơn một ngàn người biến thành người một
nhà, bà ta thật sự làm được, thật sự vận
dụng, Bồ Tát xí nghiệp đấy. Hành cúng
dường quan trọng hơn bất cứ thứ ǵ khác,
thật sự hành, thật sự làm, đó là thật. Làm
không được th́ hằng ngày niệm kinh, hằng ngày
nghe kinh giáo, nhưng làm không được th́ vô dụng, chẳng
phải là lợi ích chân thật. Thọ (受) là tiếp nhận,
Tŕ (持) là ǵn giữ chẳng để mất, Tu (修) là sửa chữa, Hành (行) là hành vi. Trước đây, trong cách nghĩ
và cách làm để lo toan nhà cửa, kinh doanh sự
nghiệp của quư vị đă sai trật, nay đă giác
ngộ, hiểu rơ, bèn nương theo phương pháp
của Phật, nương theo phương pháp trong Đệ
Tử Quy và Cảm Ứng Thiên để uốn nắn,
vun bồi bền vững ba căn bản ấy trong gia
đ́nh, trong sự nghiệp, vận dụng Phật pháp
đă học tập, khiến cho tất cả nhân công và
mọi người đều đạt được
lợi ích nơi pháp, đó là tu hành.
“Chân Giải
viết: Năng du vô lượng Phật độ,
hưng cúng dường vân, cố vân cúng dường
chư Phật” (Sách Chân Giải nói: “Có thể dạo
trong vô lượng cơi Phật, nổi mây cúng dường,
nên nói là cúng dường chư Phật”). Sau chữ Cúng Dường
dùng chữ Vân (雲),
trong kinh Phật dùng chữ này rất nhiều, chữ này tượng
trưng điều ǵ? Tượng trưng “chẳng chấp
tướng”, là Căn Bản Trí. Mây chẳng phải Không,
chẳng phải Có. Chúng ta ở trên mặt đất thấy
mây là có, nhưng quư vị ngồi máy bay đến đó,
thấy nó chẳng có. V́ vậy, nó tượng trưng điều
ǵ? H́nh tướng dường như có, nhưng trên thực
tế chẳng có, biểu thị ư nghĩa này. [Điều
ấy] dạy quư vị trong cuộc sống hằng ngày, dẫu
làm nhiều chuyện tốt đẹp đến mấy,
tâm địa quư vị phải thanh tịnh, chớ nên chấp
tướng, hễ chấp tướng là trật rồi.
Mây tượng trưng “không chấp trước, chẳng
phân biệt”, ư nghĩa càng sâu hơn là “chẳng khởi tâm,
không động niệm”, biểu thị điều này. V́
vậy, “hưng cúng
dường vân” (nổi mây cúng dường) là tự
hành, sau khi tự hành phải biết hóa tha, giúp đỡ người
khác, “khai đạo quần
sanh”. “Như Duy Ma kinh viết: Tuy tri chư Phật quốc
cập chúng sanh không” (như kinh Duy Ma nói: “Tuy biết các
cơi Phật và chúng sanh là không”), phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng, “nhi
thường tu Tịnh Độ, giáo hóa chúng sanh. Thị danh
khai đạo quần sanh” (nhưng thường tu Tịnh
Độ, giáo hóa chúng sanh. Đó là khai đạo quần
sanh). Biết cơi nước cũng là rỗng không, chúng sanh
cũng là rỗng không, nhưng Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, chỉ
dạy chúng sanh, nêu gương tốt cho chúng sanh chẳng
ngưng nghỉ ngày nào, chẳng tiêu cực, làm hết sức
tích cực, phải hiểu ư nghĩa này. V́ vậy, tự
hành rồi sau đó mới có thể hóa tha. Chính ḿnh chưa
làm được, mà dạy kẻ khác làm, kẻ khác chẳng
tin, bảo quư vị là giả dối, lừa gạt họ.
Chính quư vị đă thật sự làm được, sau đấy
dạy họ, họ sẽ cảm ơn, thật sự
học tập theo quư vị, v́ sao? Thấy quư vị quá tốt,
quả thật là cao minh hơn ta, làm tốt hơn ta nhiều
quá, ta phải nên học theo quư vị. V́ thế, ở phía
sau có một câu này, nói lên sứ mạng của Phật,
Bồ Tát trong thế gian này, chẳng có ǵ khác. “Khai” là khai khải (開啟: khơi gợi), “đạo” là dẫn đạo (引導: dẫn dắt, hướng dẫn ), khơi
gợi hết thảy chúng sanh đoạn ác tu thiện,
phá mê khai ngộ, giúp xă hội khôi phục an định, ḥa
hài. Giáo dục truyền thống Trung Quốc đă nói: “Tu thân, tề gia, trị
quốc, b́nh thiên hạ”. Chữ “gia” của Trung Quốc trước đây có thể
thay thế bằng xí nghiệp trong hiện thời, v́ [xí
nghiệp] là một đại gia đ́nh, kinh doanh xí
nghiệp là kinh doanh một đại gia đ́nh. Một đại
gia đ́nh mà thứ ǵ cũng đều đúng pháp th́ chính
là cống hiến lớn nhất đối với xă hội
và quốc gia, đem lại sự an tường, ḥa thuận
trong xă hội, đem lại ḥa b́nh cho thế giới. Mục
tiêu chung cực là thấu hiểu Phật pháp, hăy nên thường
tu Tịnh Độ, để đời sau chẳng c̣n
luân hồi trong lục đạo. Đấy mới là thật
sự rốt ráo. Phải có thương nhân Bồ Tát tại
gia thật sự kinh doanh sự nghiệp này, thúc đẩy
xă hội, đó là chuyện tốt đẹp. Hôm nay đă
hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 57 hết
[1] Đây là một thành ngữ “nhất vấn, tam bất tri”
(一問,三不知),tức là hỏi đến sự
việc ǵ đều chẳng biết nguyên
nhân, diễn biến và kết quả của sự
việc ấy. Về sau, thường dùng thành ngữ này với
ư nghĩa “hỏi ǵ cũng chẳng biết, ù ù cạc
cạc”. Thành ngữ này phát xuất từ một câu
chuyện được chép trong bộ Tả Truyện, phần
ghi chép sự kiện vào năm thứ hai mươi bảy
đời Lỗ Ai Công. Theo đó, vào năm 468 trước
Công Nguyên, đại phu Tuân Dao nước Tấn đem quân
phạt Trịnh. Nước Trịnh chống không nổi
nên sai quan đại phu là Công Tử Ban sang Tề cầu cứu.
Tề B́nh Công chẳng muốn Tấn do thôn tính Trịnh mà
lớn mạnh thêm, sẽ uy hiếp nước Tề, bèn
sai quan đại phu là Trần Thành Tử dẫn quân cứu
viện. Khi Trần Thành Tử dẫn quân đến bờ
sông Đạt Truy, trời mưa to, sĩ tốt chẳng
muốn dầm mưa vượt sông. Viên hướng
đạo nước Trịnh là Tử Tư nói: “Quân Tấn
đă kéo sát đến chân thành nước Trịnh, vua quan
nước Trịnh mong ngóng quân Tề sớm đến cứu
nguy. Nếu chẳng tiến lên, e rằng chẳng cứu
kịp”. Trần Thành Tử bèn khoác áo tơi, cầm mâu xông
lên dẫn quân tiến gấp, sẵn sàng giao chiến cùng
quân Tấn. Nguyên soái Tuân Dao của quân Tấn thấy quân Tề
nghiêm chỉnh, oai vũ, kinh sợ, bảo các bộ tướng:
“Ta bói thấy sẽ đánh nước Trịnh, chẳng
bói thấy sẽ giao chiến cùng quân Tề. Quân họ sắp
đặt tề chỉnh, ta sợ đánh không lại”.
Các bộ tướng cũng tán thành, chủ trương
lui binh. Tuân Dao vừa hạ lệnh lui quân, vừa sai sứ
giả bái kiến Trần Thành Tử. Sứ giả nói:
“Nước Tấn xuất quân lần này thật ra là v́
báo thù cho Ngài. Ḍng họ Ngài từ nước Trần
lưu lạc sang Tề. Tuy Trần bị Sở diệt
quốc, nhưng đó là tội của nước Trịnh.
Do vậy, vua nước tôi sai người đến Trịnh
để điều tra nguyên nhân khiến nước Trần
diệt quốc và chia sẻ nỗi buồn với Ngài”. Trần
Thành Tử biết là dối trá, đuổi sứ giả
về. Khi ấy, một bộ tướng của Trần
Thành Tử là Tuân Dần nói: “Tôi nghe nói nước Tấn
toan đem một ngàn cỗ chiến xa tiêu diệt quân Tề”.
Trần Thành Tử nói: “Dẫu cho một ngàn cỗ chiến
xa xông tới, chúng ta chẳng thể không giao chiến. Lời
ông vừa nói chính là làm nhụt ư chí quân ta, tăng khí thế
cho quân địch, ta sẽ tâu lại với vua”. Tuân Dần
biết ḿnh lỡ lời, bèn than: “Quân tử chi mưu dă, thỉ, trung, chung, giai cử
chi, nhi hậu nhập yên. Kim ngă tam bất tri nhi nhập chi,
bất diệc nạn hồ” (kẻ quân tử mưu
tính, ắt đều xét đến khởi đầu, diễn
biến và kết thúc, rồi mới tính mưu kế. Nay
ta cả ba điều đều chẳng biết mà đă
chen vào tính toán, cũng chẳng gặp trắc trở
ư?)
[2] Trong H́nh Học, điểm và
đường là các khái niệm trừu tượng.
Điểm được định nghĩa là “một phần không gian có
mọi chiều kích thước bằng zero”. Do vậy,
khi ta vẽ h́nh tṛn, chấm tâm h́nh tṛn dễ dàng, nhưng
do cái chấm ấy có kích thước nhất định
(dù rất bé), nó chẳng phải là điểm, nên chẳng
phải là tâm h́nh tṛn. Đường được
định nghĩa là “tập hợp của nhiều
điểm” nhưng không có bề rộng. Khi ta vẽ
một đường, do nó có bề rộng nhất
định (dù rất bé hầu như không thấy được
bằng mắt thường), nên nét vẽ ấy chẳng
phải là đường.
[3] Ngọc Môn Quan c̣n gọi là Tiểu
Phương Bàn Thành, là một cửa ải trọng
yếu của Trung Quốc nằm trên tuyến
đường Tơ Lụa, là đường giao thông
trọng yếu sang Tây Vực. Ngọc Môn Quan ở về
phía Tây Bắc thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc.
Cửa ải này được thành lập từ
đời Hán. Tuy gọi là Quan, nhưng đây không phải
là đường đèo, mà là một cửa thành phân cách
Trung Hoa với các nước Tây Vực.